Chúa Nhật XIV Thường Niên, Năm A

“Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng
trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”.
(Mt 11,28)

BÀI ĐỌC I: Dcr 9, 9-10
“Này vua ngươi khiêm tốn đến với ngươi”.

Trích sách Tiên tri Dacaria.

Đây Chúa phán: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng! Này vua ngươi đến với ngươi. Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ; Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ. Người đã loại bỏ các chiến xa khỏi Ephraim, và ngựa khỏi Giêrusalem. Cung tên chiến trận sẽ được phá huỷ. Người sẽ công bố hoà bình cho các dân tộc. Quyền bính của Người sẽ bành trướng từ biển này đến biển nọ, từ sông cái đến tận cùng trái đất”.

ĐÁP CA: Tv 144, 1-2. 8-9. 10-11. 13cd-14
Đáp: Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời (c. 1).

1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. – Đáp.

2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. – Đáp.

3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. – Đáp.

4) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Rm 8, 9. 11-13
“Nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được hành động của xác thịt, thì anh em sẽ được sống”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Đức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người. Và nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Kitô từ cõi chết sống lại, cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em.

Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động (xấu xa của) thân xác, thì anh em sẽ được sống.

TIN MỪNG: Mt 11, 25-30
Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. – Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
“Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.

SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa

BIẾT MẦU NHIỆM

“Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời.” (Mt 11,25)

Suy niệm: Thông thường, để hiểu biết sự vật, người càng khôn ngoan thông thái càng hiểu biết cách sâu sắc hơn. Nhưng đó là để hiểu biết sự vật bình thường; còn đối với những vấn đề thuộc lãnh vực mầu nhiệm thì cần có cách hiểu biết riêng, bởi vì mầu nhiệm không phải là một đối tượng mà chúng ta có thể dùng phương pháp thông thường của trí tuệ là phân tích lý luận để hiểu biết được. Chúng ta chỉ có thể hiểu biết mầu nhiệm bằng cách đón nhận trong niềm tin. Biết mầu nhiệm không phải là làm cho mầu nhiệm hết ‘mầu nhiệm’ (không còn sâu thẳm nữa), mà đón nhận mầu nhiệm vì là ‘mầu nhiệm’. Phương pháp này người bình dân hay hàng thức giả đều có thể tiếp cận, thế nhưng đối với những người muốn ‘xử lý’ con người như những sự vật, muốn ‘mổ xẻ’ những “sự trên trời” (x. Ga 3,10-13) như những thứ phàm tục thì sự khôn ngoan thông thái lại trở thành rào cản khiến họ không thể hiểu được mầu nhiệm nữa.

Mời Bạn: Không thể định nghĩa được tình yêu nhưng ai trong chúng ta cũng đều biết yêu và có khả năng yêu. Đối với mầu nhiệm cũng vậy, chúng ta đón nhận như một người đang yêu và được yêu, bởi vì mầu nhiệm mà Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta là chính Ngài, Đấng là Tình Yêu. Đừng vì một chút thông thái rởm mà đánh mất khả năng nhận biết mầu nhiệm.

Chia sẻ: Một số người cho rằng càng học cao hiểu rộng người ta càng dễ xa Thiên Chúa. Bạn nghĩ sao?

Sống Lời Chúa: Dâng lên Chúa một lời nguyện tắt đơn sơ đầy tâm tình yêu mến.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con nhận biết và yêu mến Chúa.

B/ Lm. Inhaxiô Hồ Thông

CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN

Phụng Vu Chúa Nhật XIV Thường Niên năm A này trổi lên cung giọng hân hoan. Bài Đọc I và Tin Mừng ca ngợi giá trị cao cả của con người. Bài Đọc II ca mừng cuộc chiến thắng của Thần Khí trên xác thịt, sự sống trên sự chết.
Dcr 9: 9-10
Bài Đọc I, được trích từ sách Da-ca-ri-a, là một lời mời gọi hãy vui lên, được gởi đến dân thành Giê-ru-sa-lem, vì Vua của họ sẽ trở lại viếng thăm họ, cỡi trên một con lừa con: Vua Mê-si-a là một vị vua khiêm tốn và hòa bình.
Rm 8: 9, 11-13
Trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô công bố rằng người Ki-tô hữu sống theo Thần Khí thì chiến thắng tính xác thịt và tội lỗi, vì Thần Khí là sự sống và là sự sống lại.
Mt 11: 25-30
Đoạn Tin Mừng Mát-thêu là bài “thánh thi ngợi ca”. Đức Giê-su vui mừng vì Cha Ngài mặc khải những điều bí nhiệm của mình cho những người bé mọn và khiêm hạ.
BÀI ĐỌC I (Dcr 9: 9-10)
Bản văn này được trích dẫn từ phần thứ hai của sách Da-ca-ri-a, nhưng tác giả không phải là ngôn sứ Da-ca-ri-a. Ngôn sứ Da-ca-ri-a thật sự sống vào thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên vào thời kỳ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết (521-515 trước Công Nguyên) sau thời lưu đày Ba-by-lon. Trong khi phần thứ hai của sách mang tên của vị ngôn sứ thì khoảng hai thế kỷ sau đó. Phần này bao gồm từ chương 9 đến chương 14 được gán đúng hơn cho nhiều tác giả dưới danh xưng là Da-ca-ri-a đệ nhị. Tác phẩm hỗn hợp này quy tụ nhiều mảnh văn khác nhau, vô danh và không có niên biểu. Nó được định vị vào thời kỳ giữa truyền thống ngôn sứ biến mất và sự khai sinh các sách khải huyền. Vào lúc đó, người ta đọc lại những tác giả thời quá khứ, giải thích và làm mới lại sứ điệp của họ. Bản văn mà chúng ta đọc thì đầy những hồi ức của I-sai-a, Xô-phô-ni-a, Mi-kha, hai sách Các Vua, vân vân.
Đề tài về Đấng Thiên Sai nối kết những yếu tố rời rạc giữa chúng. Đấng Thiên Sai được tuyên sấm qua ba dung mạo, cả ba dung mạo này đều có âm vang lớn lao mà các tác giả Tin Mừng: 1- dung mạo vị vua thiên sai, khiêm hạ và hòa bình; 2- dung mạo người mục tử nhân lành bị các lãnh tụ của dân Ngài loại bỏ; 3- sau cùng dung mạo của một Đấng Bị Đâm Thâu mầu nhiệm.
Trong phần thứ nhất này, bản văn gợi lên cho chúng ta dung mạo của Vua Thiên Sai:
1.Vua Thiên Sai tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem:
“Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng rao hò!
Vì kìa Đức Vua đến với ngươi” (Dcr 9: 9)
“Thiếu nữ Xi-on” và “thiếu nữ Giê-ru-sa-lem” là hai diễn ngữ Do thái được dùng để chỉ dân cư thành thánh Giê-ru-sa-lem và ngọn đồi Xi-on.
Bài hoan ca, loan báo Vua Thiên Sai ngự đến, được gợi hứng bởi những tiếng hoan hô phụng vụ tán dương vương quyền của Đức Chúa. Các Thánh Vịnh cung cấp nhiều ví dụ như Tv 47: 2:
“Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!
Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!
Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy,
là Vua Cả thống trị địa cầu”.
Hay Tv 95: 1-3:
“Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa,
tung hô Người là Núi Đá độ trì ta,
vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ,
cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.
Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả,
là Đại Vương trổi vượt chư thần”.
Ngôn sứ Xô-phô-ni-a cũng đã tán dương các thánh thi phụng vụ này như vậy rồi:
“Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on,
hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi.
….
Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa” (Xp 3: 14-15).
2.Ngài là Vua khiêm tốn:
Vị vua tương lai này sẽ là “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Năng”. Tác giả lấy lại những phẩm chất quen thuộc trong truyền thống thuần túy về trào lưu Vua Thiên Sai (x. I s 9: 6; 11: 4; 16: 5; Gr 23: 5; vân vân). Tuy nhiên, danh xưng “Đấng Chính Trực” gợi lên sự thánh thiện của Ngài hơn là phẩm chất của Đấng Thiên Sai Thẩm Phán; còn về danh xưng được dịch “Đấng Toàn Năng”, theo nguyên ngữ có nghĩa “được giải thoát khỏi những thù địch của Ngài”. Tác giả ghi nhận sự toàn năng, vì ông muốn nhấn mạnh một phẩm chất cốt yếu khác của Vua Thiên Sai: đức khiêm tốn.
“Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa hãy còn theo mẹ” (Dcr 9: 9)
Con lừa là con vật mà các vị lãnh tụ thời xưa của dân Ít-ra-en cỡi, sau đó được thay thế bởi con ngựa vì cần thiết cho chiến binh xung trận. Thường dân vẫn cỡi lừa.
Bản văn của Da-ca-ri-a đệ nhị này là bản văn Cựu Ước duy nhất – không kể đến những gợi ý của Người Tôi Trung – trình bày Đấng Thiên Sai ngự đến dưới những đường nét của một nhân vật rất mực khiêm tốn. Sấm ngôn này sẽ được thực hiện bởi Đức Giê-su, Ngài tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên một con lừa con trong tiếng reo mừng hân hoan của đám đông.
3.Ngài là Vua bình an:
 “Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ép-ra-im,
và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem;
cung nỏ chiến tranh sẽ bị bẻ gãy” (Dcr 9: 10).
Tác giả muốn nói rằng kỷ nguyên Mê-si-a sẽ là kỷ nguyên của sự thống nhất hai vương quốc. Ngài là Vua đem lại bình an, vì thế, tất cả bộ máy chiến tranh sẽ bị hủy bỏ. Nhiều ngôn từ nhắc nhớ nhiều bản văn Kinh Thánh: ngôn sứ Hô-sê đã loan báo:
“Trong ngày đó, vì dân Ta,
….
Ta sẽ bẻ gãy cung nỏ gươm đao,
chấm dứt chiến tranh trên toàn xứ sở,
và Ta sẽ cho chúng được sống yên hàn” (Hs 2: 20).
Chúng ta cũng đọc thấy tại Mi-kha:
“Ta sẽ cho ngựa của ngươi biến khỏi xứ,
sẽ hủy diệt xe trận của ngươi” (Mk 5: 9).
Hòa bình phải là điều thiện hảo tuyệt mức của thời Thiên Sai. Vua Thiên Sai “sẽ công bố hòa bình cho muôn dân” (Dcr 9: 10). Diễn ngữ này hoàn toàn kinh điển như Is 57: 19: “Bình an! Bình an cho khắp xa gần!” (x. Tv 46 và 72), tức là bình an cho cả dân Do thái (dân ở gần) lẫn muôn dân (dân ở xa). Đó cũng là vai trò của Người Tôi Trung là trở nên ánh sáng muôn dân và đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.
Bất chấp cái mâu thuẫn bên ngoài, Đấng Thiên Sai hòa bình sẽ mở rộng vương quyền của Ngài trên một lãnh địa rộng lớn:
“Người thống trị từ biển này qua biển nọ,
và từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Dcr 9: 10).
Được hiểu sát từ, những lời tiên báo này đặt nền tảng trên những niềm hy vọng của dân Chúa chọn vào sự khôi phục nền quân chủ thời Đấng Thiên Sai. Đây là niềm mơ ước bền bỉ mà Chúa Giê-su sẽ còn gặp phải khi các môn đệ hỏi Ngài sau biến cố Phục Sinh: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1: 6). Nhưng đó không là viễn cảnh của vị ngôn sứ, ông đã để cho hiểu rằng “sự thống trị” của vị vua hòa bình sẽ không thuộc lãnh vực trần thế.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 9, 11-13)
Với một lập luận vững chắc, thánh Phao-lô đã cho thấy rằng Thần Khí đang hoạt động ở nơi biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô, bởi vì Thần Khí là nguồn sống, Ngài bảo đảm cùng một sự sống lại cho con người phải chết của chúng ta, ở đó Ngài thiết lập chỗ ở của Ngài.
Sau khi đã gợi lên sự nghèo nàn về phương diện luân lý của nhân loại dưới quyền lực của tội lỗi, khởi đi từ chương 8 của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô phác họa đời sống mới của người Ki-tô hữu: được Chúa Ki-tô công chính hóa, từ nay họ sống dưới quyền lực của Chúa Thánh Thần.
Trong một phản đề mạnh mẽ, thánh Phao-lô đối lập bản tính yếu đuối và tội lỗi của con người mà thánh nhân gọi “tính xác thịt” với bản tính được ân sủng đổi mới thì sống theo tác động của Thần Khí. Ở đây chúng ta nên lưu ý rằng thánh Phao-lô liên tục nói về Thần Khí của Thiên Chúa và Thần Khí của Đức Ki-tô trong một phương trình hoàn hảo.
Dưới sức mạnh của Thần Khí này, từ nay chúng ta có thể chiến thắng những sức mạnh của sự dữ, “diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta”. Thần Khí ở trong con người phải chết của chúng ta, chính Ngài thanh tẩy, thánh hóa và thần hóa chúng ta; chính Ngài bảo đảm sự phục sinh của chúng ta.
TIN MỪNG (Mt 11: 25-30)
Lời cầu nguyện tạ ơn này Chúa Giê-su ngỏ lời với Chúa Cha đều được thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca ghi lại. Thánh Lu-ca đặt lời cầu nguyện này vào lúc bảy mươi hai môn đệ hoan hỷ trở về từ sứ mạng của mình, vào lúc đó Chúa Giê-su cùng vui với họ và tạ ơn Cha Ngài về sứ mạng thành công. Lời cầu nguyện này xem ra được đặt vào trong bối cảnh này (Lc 10: 21-22).
Khi trình bày lời cầu nguyện này trong một bối cảnh khác, thánh Mát-thêu cho nó một chiều kích thần học có lẽ sâu xa hơn. Đức Giê-su vừa chịu những thất bại: sự chống đối của những người Pha-ri-sêu càng tăng lên, nhất là trong ba thành phố miền Ga-li-lê: Ca-phác-na-um, Bết-sai-đa và Khơ-ra-din. Chúa Giê-su báo trước án phạt đối với các thành này: chúng sẽ bị triệt hạ.
1.Thánh thi chúc tụng:
Ấy vậy, thay vì cảm thấy sự cay đắng, Chúa Giê-su lại chúc tụng Cha Ngài. Lời cầu nguyện của Ngài theo thể văn xuôi Hy-lạp có vần có điệu, cũng được gọi là “thánh thi chuc tụng”. Nên nghĩ rằng những lời nói của Đức Giê-su, được thốt lên bằng tiếng A-ram, bao gồm một sự cấu trúc tương tự, theo văn phong nói thông thường của người Do thái, ở đó vần điệu giúp cho việc ghi nhớ được dễ dàng.
2.Tán dương “những người bé mọn”:
Chúa Giê-su ngợi khen Cha Ngài vì đã khai lòng mở trí cho “những người bé mọn” hiểu, trong khi lại giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời. Chúa Giê-su chủ yếu nhắm đến những giới kinh sư và nhóm Pha-ri-sêu, họ tự phụ về sự hiểu biết của mình và giam hãm mình vào trong sự khôn ngoan nhân loại. Các ngôn sứ đã loan báo điều này, như I-sai-a:
“Vì thế, Ta sẽ tiếp tục làm cho dân này phải sững sờ kinh ngạc
vì bao nhiêu dấu lạ điềm thiêng.
Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy thất bại,
và trí thông minh của người thông minh sẽ tan thành mây khói” (Is 29: 14)
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã ngỏ lời với các kinh sư Giê-ru-sa-lem:
“Những hạng khôn ngoan ấy
sẽ thẹn thùng, run sợ, và sa vào cạm bẫy.
Này, lời Đức Chúa thì chúng khinh miệt,
chúng khôn ngoan nỗi gì?” (Gr 8: 9).
“Những người bé mọn” trước tiên chỉ ra các môn đệ của Chúa Giê-su – sau này Ngài sẽ gọi họ như vậy nhiều lần – nhưng cũng những người khiêm hạ trong đám đông lắng nghe lời Ngài, vì họ không bị bối rối bởi tính tự hào tự phụ về sự hiểu biết của mình.
Chúa Giê-su còn nhiều lần khác sẽ ca ngợi tinh thần trẻ thơ. Chính xác thánh Mát-thêu thuật lại một sự cố có ý nghĩa. Trong khi lũ trẻ reo hò trong Đền Thờ: “Hoan hô con vua Đa-vít”, thì các thượng tế và kinh sư tức tối. Đức Giê-su trích dẫn Tv 8: 2 nói với họ: “Lời này các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21: 14-16).
3.Chúa Cha và Chúa Con:
Qua lời thân thưa này: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất”, Chúa Giê-su không còn có thể khẳng định địa vị Con Thiên Chúa của Ngài rõ ràng hơn nữa.
“Không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha: cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con, và người mà Chúa Con muốn mặc khải cho”. Cung giọng của đoạn văn rất gần với cung giọng của Tin Mừng Gioan, ở đó, thánh Gioan nhắc đi nhắc lại nhiều lần những mối liên hệ mật thiết hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trong sự hiểu biết và tình yêu.
Khi khẳng định: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi”, Chúa Giê-su xem ra nói trước lời khẳng định mà Ngài sẽ công bố sau khi Ngài sống lại: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28: 18). Trong bối cảnh định vị những lời này, chắc hẳn Chúa Giê-su gợi lên công trình cứu độ mà Ngài có sứ mạng thực hiện và nay các môn đệ được mặc khải cho biết. Chúa Giê-su là Đấng Trung Gian duy nhất. Về vấn đề này Tin Mừng Gioan cung cấp sự bổ túc tốt nhất, như “Thật vậy, Chúa Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17: 2).
4. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi”:
Trong Tin Mừng Mát-thêu chứ không Tin Mừng Lu-ca, lời cầu nguyện của Chúa Giê-su được theo với một bản văn được liệt vào trong số những hạt ngọc Tin Mừng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
Gánh nặng và cái ách là hai hình ảnh rất nổi tiếng của đạo Do Thái để chỉ Lề Luật. Thánh Vịnh 19 công bố rằng:
“Luật Pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19: 8-9).
Nhưng vì phó mặc cho các nhà lãnh đạo Do thái quá chi ly, Lề Luật đã bị chất quá tải với những tuân giữ nặng nề. Luật của Đức Giê-su, Luật yêu thương, mang sức mạnh giải thoát:
“Quả thật, yêu mến Thiên Chúa
là tuân giữ các điều răn của Người.
Mà các điều răn của Người
có nặng nề gì đâu” (1Ga 5: 3).
Khi tuyên bố: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học gương tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”, Chúa Giê-su mượn cách nói của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
“Hãy dừng lại trên các nẻo đường mà coi,
hãy tìm hiểu những đường xưa lối cũ
cho biết đâu là đường ngay nẻo chính, rồi cứ đó mà đi:
tâm hồn các ngươi sẽ bình an thư thái” (Gr 6: 16).
Đức Giê-su, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, kêu gọi chúng ta trở nên môn đệ Ngài. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất ghi nhận tấm lòng dịu dàng này của Đức Giê-su, cũng như thánh nhân là thánh ký duy nhất trích dẫn bức chân dung Người Tôi Trung của I-sai-a: “Người không lên tiếng giữa phố phường, không đành bẻ gảy cây lau bị giập, chẳng nở tắt đi tim đèn leo lét”, và áp dụng vào Đức Ki-tô (Mt 12: 18).

C/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

 HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG

I. DẪN NHẬP

  Ngày nay, người ta say mê quyền lực và muốn khuất phục người khác dưới quyền mình, muốn sai khiến người khác theo ý mình. Con người có khuynh hướng trở nên kiêu ngạo. Người ta có dị ứng khi nói đến lời dạy “hiền lành khiêm nhường “của Đức Kitô, nhất là khuyên chúng ta hãy thực hiện đức tính này.

  Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta cần đi bước theo chân Chúa Kitô. Người đã đến chia sẻ kiếp người của chúng ta, Người đã đi đến mức cùng của việc tự hạ: sống chung thân phận với người nghèo khổ, như người tôi tớ rốt hết. Hiền lành và khiêm nhường là những đức tính mà Chúa Giêsu đã thực hiện trước và khuyên các môn đệ hãy đem ra thực hành: “Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

  Thực ra, trước Chúa Giêsu mấy trăm năm, nhà hiền triết Lão Tử cũng đã đưa ra chủ trương: “Nhu nhược thắng cương cường”: lấy mềm dịu thắng cứng rắn (nhu thắng cương, nhược thắng cang). Đây là một chủ trương mới lạ, khó được chấp nhận, chỉ những người có tâm hồn cao thượng mới hiểu và chấp nhận được chủ trương này. Hôm nay chúng ta thấy lời khuyên của Chúa Giêsu rất gần với chủ trương của Lão Tử. Và trong thực tế, có rất nhiều người đã thực hiện lời khuyên của Chúa Giêsu. Họ đã thành công và đã để lại tấm gương sáng muôn đời cho nhiều người. Chúng ta hãy nhớ lại lời khuyên của Chúa Giêsu trong “Tám mối phúc thật”: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.

II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Dcr 9,8-10

  Trong thời Chúa Giêsu, người ta đang trông chờ Đấng Messia đến cứu dân Người với hình ảnh là một Đấng Messia đầy quyền uy, dùng võ khí để tái lập hoà bình. Nhưng tiên tri Giacaria lại loan báo cho dân thành Giêrusalem biết: Đấng Messia không đến trong quyền uy với võ khí huỷ diệt, nhưng đến với một thứ võ khí đặc biệt là “hiền lành và khiêm nhường”.

  Theo đó, Đấng Messia sẽ đến cũng là một vị Vua nhưng là vị Vua có những đức tính khác biệt:

          . Ngài không phải là vị vua chiến tranh nhưng là vua hòa bình.
. Ngài rất khiêm nhường, không ngồi trên lưng ngựa mà trên lưng lừa.
. Ngài rất hiền lành: không muốn giết chết mà chỉ muốn cứu sống.

  Đức Giêsu sẽ hoàn tất việc mong chờ này vào ngày lễ Lá, khi Người vào thành Giêrusalem trên lưng một con lừa, như những người nghèo.

+ Bài đọc 2: Rm 8,9.11-13

  Đây là đề tài phụ. Thánh Phaolô nhắc cho chúng ta rằng khi được chịu phép rửa tội, chúng ta thực sự đã trở nên môn đệ Chúa Kitô, và để phục sinh với Người chúng ta phải sống theo thần khí của Người (tức là Thánh Thần) chứ đừng “sống theo xác thịt” là mọi khuynh hướng xấu sẵn có trong chúng ta.

  Ai sống đời sống cũ tức là sống theo xác thịt sẽ bị dẫn đến sự chết. Còn ai sống đời sống mới tức là sống theo Thánh Thần sẽ được dẫn tới sự sống vĩnh cửu.

+ Bài Tin mừng: Mt 11,25-30

  Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta có thể tìm thấy hai ý tưởng chính:

a) Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Người quý chuộng những kẻ bé mọn và khiêm nhường. Chính Người đã tiết lộ bí mật của Người cho họ trong khi Người lại giấu không cho những người khôn ngoan và quyền thế biết được những điều ấy. Vì sao? Vì các luật sĩ và biệt phái đáng lẽ ra phải là những người đầu tiên nhận ra rằng Chúa Kitô là sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng sự hiểu biết về Sách thánh của họ đã làm cho họ đầy kiêu căng, một thứ vật cản.

b) Sang phần sau, Chúa Giêsu cho biết, vì không tự mãn, những trí óc khiêm nhường của những kẻ bé mọn lại được mở ra ngay từ đầu đối với những mầu nhiệm của Chúa. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa và đón nhận lời Người.

  Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng khuyên những người bé mọn đó hãy “mang lấy ách của Ngài” tức là “hãy học cùng Ngài” về hai đức tính căn bản là “Hiền lành và khiêm nhường” trong cuộc sống hằng ngày để làm môn đệ Chúa.

III. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: 

NGƯỜI HIỀN LÀNH KHIÊM NHƯỜNG

Trong phần thực hành lời Chúa, chúng ta chỉ bàn đến lời khuyên của Chúa trong phần thứ hai của bài Tin mừng: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

1. NÓI VỀ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG

1.1. Nói về hiền lành

  Hiền lành hay hiền hậu là con người tốt lành, không độc ác, nhưng có lòng thương người, có đức hạnh và hay làm điều thiện. Ví dụ: Cha mẹ hiền lành để đức cho con.

  Theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hoà nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo.

  Hiền lành thì phải tránh tính nóng nảy. Trong đời sống hằng ngày, người có quyền bính đều sử dụng tính nóng nảy của mình đối với người khác, có khi còn “giận cá băm thớt”. Người ta từng nói: “No mất ngon, giận mất khôn”. Cho nên, để luôn luôn tự cảnh giác, ông Nguyễn Đình Giản, thời Lê mạt, đã viết vào một mảnh giấy, dán lên chỗ ngồi giải trí, câu này:

Tảo cấp tắc bại sự
Nóng tính thì hỏng việc.

1.2. Nói về khiêm nhường

  Theo chữ thì Khiêm nhường hay khiêm nhượng là nhún nhường không khoe khoang, hạ mình xuống một chút. Căn bản của khiêm nhường là biết mình “là” thế nào: từ đó không muốn tỏ ra hơn cái “là” ấy; và giả như người khác có coi mình kém hơn cái “là ấy” thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh thản và thành thật đúng với cái “là” của mình.

  Khiêm nhường trái ngược với kiêu ngạo. Kiêu ngạo là muốn tự cho mình vượt quá cái “là” của mình và bắt người ta phải công nhận như vậy. Người kiêu ngạo được coi là người VIỆT VỊ trong bóng đá vì đã vượt quá vị trí của mình. Dĩ nhiên, cầu thủ “việt vị” thì đều bị trọng tài phạt.

Truyện: Hoàng đế Napoléon kiêu ngạo

  Trong trận đánh Nga, hoàng đế Napoléon đã mơ tưởng thu phục cả Ấn Độ, và với lòng kiêu căng vô biên, nhà vua đã cho đúc một thứ huy chương có dòng chữ này: “THIÊN ĐÀNG LÀ CỦA CHÚA, TRÁI ĐẤT LÀ CỦA TÔI”. Nhưng rồi nhà vua đã mất ngôi báu vì trận Nga này. Sau trận thất bại của nhà vua, một viên đại tướng Nga cũng cho đúc một huy chương khác, trên mặt có một hình bàn tay đưa ra đám mây và cầm roi đánh vào lưng Napoléon cùng với lời này: “CÁI LƯNG LÀ CỦA MÀY, CÁI ROI LÀ CỦA TA”. Và như thế, vị hoàng đế kiêu ngạo, sau này trong nơi vắng vẻ bị tù đày ở đảo Sainte Helène có thể suy nghĩ đến chân lý về những lời này của Chúa: “Kẻ nào đưa mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23,12).

2. NGƯỜI ĐỜI NGHĨ THẾ NÀO?

  Tuỳ theo quan niệm của người ta, hiền lành nhịn nhục có thể bị coi như một thái độ hèn nhát, nhu nhược. Nhưng cũng có rất nhiều người coi đó là thái độ anh hùng đáng ca tụng. Phải là một con người có bản lĩnh vững vàng cao thượng mới có thể thực hiện được.

2.1. Thái độ hèn nhát

  Ngày nay sự hiền lành dễ thương không còn được đánh giá cao như trước. Trước đây lời khen ngợi tốt nhất mà ta có thể trao tặng cho kẻ khác là gọi họ là “người hiền lành dễ thương”. Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương. Truyền hình đã làm cho bạo lực có rất nhiều khán giả bằng những chương trình Nielson rất phổ biến (bên Mỹ).

  Nếu thi sĩ Alfred de Vigny coi cầu nguyện và than vãn là thái độ hèn yếu, thì đối với ông và với nhiều người khác, họ nghĩ sao với lời Chúa: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”? Có lẽ họ muốn theo cách hành động của anh chàng Tân Ti Tụ suốt đời không chịu để cho ai làm nhục.

Truyện: Anh chàng Tân Ti Tụ

  Đời Trang Công nước Tề có người tên là Tân Ti Tụ đêm nằm mơ thấy một chàng cao lớn đội mũ trắng đi giày mới, mặc quần gai, áo vải, đeo gươm tự dưng đến nhà mắng, nhổ vào mặt mà đi.

  Tân Ti Tụ giật mình thức dậy, tuy biết chiêm bao nhưng vẫn tức tối, suốt đêm bực rọc khó chịu, không ngủ được.

  Sáng dậy, Tân Ti Tụ mời một bạn thân đến nói rằng:

 – Bác ạ, tôi từ nhỏ đến giờ vẫn là kẻ hiếu dũng, nay sáu mươi tuổi rồi mà chưa hề chịu ai làm nhục, thế mà đêm qua bị một đứa, tôi phải đi tìm để báo thù, nếu thấy thì hay, còn không tôi chết mất.

  Thế rồi từ hôm ấy, sáng nào Tân Ti Tụ cũng cùng bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình mãi ba ngày không thấy, rút cục Tân Ti Tụ phải uất lên mà chết (Thái Bạch, Đông tây kim cổ tinh hoa, 1965, tr 134).

2.2. Thái độ can đảm

Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết hành động theo tình tư dục, những bậc thánh nhân, hiền nhân quân tử có cái nhìn khác hẳn. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.

Thánh Francois de Sales nói: “Tất cả đều được chinh phục bởi hiền dịu chớ không phải bạo lực”.

Nhà hiền triết Mạnh Tử nói:

Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân”
Đạo trời không riêng một người. Luôn gia ân cho kẻ hiền lành.

Ông Tô Đông Pha, một văn sĩ Trung hoa thời xưa nói rất chí lý:

Chỗ mà người xưa gọi là hào kiệt, ắt phải có khí tiết hơn người. Nhưng, nhân tính có chỗ không thể nhịn được. Bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục, tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Kẻ đại dũng trong thiên hạ, trái lại, thình lình gặp những việc phi thường cũng không kinh, vô cố bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão của họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa vậy”.

Để làm nổi bật cái triết lý “Nhu nhược thắng cương cường” trong phương diện cách mạng, ông Nguyễn Duy Cần trong cuốn “Cái dũng của thánh nhân” đã đề cập đến cuộc giải phóng Ấn Độ do ông Gandhi điều khiển. Chính sách đề kháng bất bạo động của Gandhi đã làm cho thế giới hết sức ngạc nhiên và thán phục. Đâu phải người ta không biết dùng bạo động, nhưng vì người ta cho đó là còn hạ sách.

Ông Gandhi nói: “… Tôi tin rằng Ấn Độ không phải là vô lực. 100.000 người Anh làm gì mà đến 300 triệu người Ấn kia phải sợ? Bất bạo động đâu phải chịu luỵ kẻ làm hại mình. Bất bạo động, là dùng sức mạnh của cả tâm hồn để chống lại với cường quyền của kẻ độc tài”.

Một người như thế thôi cũng đủ khiêu khích cả một đế quốc và làm cho nó “tan tành nghiêng ngửa”.

Truyện: Lạn Tương Như và Liêm Pha.

Lạn Tương Như được phong làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị đứng dưới, nên tức giận hăm he hễ gặp mặt Tương Như là giết đi. Tương Như vì thế cứ lánh mặt mãi… Một hôm Tương Như ra ngoài, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra. Bọn xá nhân thấy thế càng giận bèn họp nhau hỏi Tương Như:

– Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc thượng phu nên mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm Pha dọa, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thế vậy? Chúng tôi lấy làm xấu hổ, vậy xin đi thôi không ở nữa.

Tương Như nói:

– Các ngươi xem tướng quân có hơn được vua Tần không?

Bọn xá nhân đáp:

– Không.

Tương Như nói:

– Lấy cái oai của vua Tần, thiên hạ ai dám chống, mà Tương Như này dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân ư? Nhưng ta nghĩ, Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì e có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, thế không cùng sống. Tần nghe tin, tất thừa cơ đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là coi việc nước là trọng và thù riêng là khinh vậy thôi.

Bọn xá nhận mọp lạy mà rằng:

– Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.

Liêm Pha khi nghe thuật lại việc làm của Tương Như cả thẹn mà rằng: “Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Bèn đến tạ tội với Tương Như, quỳ mọp mà rằng: “Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá”. Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết làm bạn sống chết với nhau.

(Nguyễn Duy Cần, Cái dũng của thánh nhân, 1958, tr 162-163)

3. CHÚNG TA NGHĨ SAO?

  Mỗi người phải lựa chọn cho mình một hướng đi. Chúng ta phải có lựa chọn nào trước lời Chúa dạy: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”? Thái độ của người hiền lành là hèn nhát hay can đảm?

  Đối với chúng ta, sự hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu đã làm cho không biết bao người đương thời với Chúa Giêsu và bao thế hệ sau này ngỡ ngàng và kinh ngạc.

Truyện: BEN HUR

  Nhà văn Lewis Wallace trong tác phẩm BEN HUR cũng nói lên tâm tư sững sờ trước sự khiêm nhường sâu thẳm của Đức Kitô:

  Ben Hur khi chứng kiến cảnh Đức Kitô bị Giuđa phản nộp và bị các tên lính bắt trói, chàng hăm hở tiến đến gần Chúa Giêsu và hỏi:

 – Lạy Thầy, hãy nghe tôi, có phải Thầy tự ý muốn đi theo bọn lính và các giáo sĩ hay không?

  Đức Giêsu lặng thinh.

 – Lạy Thầy, tôi có một binh đoàn quân Galilê trong thành phố này. Hãy ra lệnh đi, họ sẽ phục tùng Thầy. Thầy có thuận không?

  Đức Giêsu vẫn một mực cúi nhìn đăm đăm xuống đất.

 – Lạy Thầy, một lời thôi, một lời của Thầy thôi, tất cả sẽ theo Thầy…

  Đức Giêsu vẫn im lặng, đến nỗi Ben Hur ngã vật xuống bờ sông Cédron và thốt lên:

 – Người Nazareth, hỡi người Nazareth, thế thì thông điệp của Người mang ý nghĩa gì?

  Mang một ý nghĩa gì ư? Đó là “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đó là thông điệp mà Đức Giêsu gửi cho mọi người chúng ta. Ngài đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Ngài thôi.

  Qua những tư tưởng trên, chúng ta thấy sự hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô không là một sự nhu nhược nhát đảm, nhưng đó là đức tính của những vĩ nhân, của những bậc đại thánh. Bởi vì chính tính khí kiêu căng đã làm cho thế giới bị đảo lộn, hận thù ghen ghét, chiến tranh. Những kẻ kiêu căng tự mãn là những tiểu nhân, hèn mọn, còn những tâm hồn hiền lành khiêm nhường là bậc anh hùng vì họ đã anh dũng chiến thắng được bản thân với những tính tự ái ích kỷ hẹp hòi. Đó mới là cuộc chiến quan trọng, và cái chiến thắng của cuộc chiến đó mới đáng kể.

Truyện: Đức Gioan 23 và bức thư

  Lúc được phong chức Tổng giám mục, Đức Cha Roncalli là Khâm sứ Tòa thánh kiêm đại diện Tông toà quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Công việc của ngài rất khó khăn, vì phải trông coi một vùng rộng lớn đang sôi động về mặt chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo, Công giáo với Tin lành, Chính thống, Hồi giáo, các linh mục triều lại chia rẽ với các tu sĩ.

  Trong lúc thi hành công việc mục vụ, Đức Tổng giám mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích Ngài về mọi mặt, do tay một linh mục bất mãn viết. Đọc xong, Đức cha Roncalli không nói một lời, lòng vẫn tha thiết yêu vị linh mục ấy.

  Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức sứ thần Tòa thánh tại Paris, rồi hồng y giáo chủ Vênêtia, và cuối cùng đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan 23 năm 1958.

  Linh mục bất mãn viết thư năm nào vẫn còn sống. Về sau để ngài tháp tùng với giáo dân sang Rôma và xin được yết kiến Đức Giáo hoàng.

  Linh mục ấy đã thuật lại cuộc tiếp kiến riêng tư với Đức Giáo hoàng:

  “Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi trộm nghĩ, đã mấy chục năm trời qua rồi, giờ đây chắc hẳn Đức Thánh Cha không còn nhớ gì… Nhưng ai ngờ, sau khi tiếp chuyện thân mật, Đức Thánh Cha với lấy cuốn Kinh thánh và lôi ra trước mặt tôi bức thư khốn nạn ấy. Đang khi tôi lo âu lúng túng, Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: “Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Thánh kinh, để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.

  Trong bài “Anh hùng” được chia sẻ với giới trẻ hạt Đức Trọng, tôi đã đề cập đến câu định nghĩa về anh hùng của Vương Thông, theo đó:

ANH là người tự biết mình.
HÙNG là người tự thắng mình.

  Vậy người thực hiện được lời Chúa dạy: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” phải là vị anh hùng vì họ đã tự biết mình và đã thắng được mình, thắng được tính nóng nảy và hay trả thù của mình. Đứng trước tấm gương của những người hiền lành nhịn nhục, không ai dám coi họ là những người hèn nhát mà phải suy tôn họ là anh hùng.

  Trong bài giảng “Tám mối phúc thật”, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Nếu người ta nói: “Cha nào con ấy” thì chúng ta phải nghĩ thế nào khi chúng ta là con cái Chúa? Nếu Cha chúng ta là Đấng hiền lành khiêm nhường, còn chúng ta là con, thì không thể nào đi ra khỏi con đường Chúa đã vạch ra cho chúng ta. Bài học đã có sẵn, chúng ta chỉ việc đưa ra thực hành.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses cookies to offer you a better browsing experience. By browsing this website, you agree to our use of cookies.