“Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy;
và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy”.
(Mt 10,40)
BÀI ĐỌC I: 2 V 4, 8-11. 14-16a
“Người đến trọ nhà mình, là một vị thánh của Thiên Chúa”.
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Một ngày nọ, Êlisê đi ngang qua miền Sunam. Ở đó có một bà sang trọng mời ông ở lại dùng bữa. Và từ đấy, mỗi khi ông đi ngang qua đó, ông đều đến nhà bà dùng bữa. Bà nói với chồng bà rằng: “Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó”.
Một ngày nọ Êlisê đến, ông lên căn phòng trên lầu và nghỉ tại đó. Ông nói (với Giêzê, tiểu đồng của ông): “Bà muốn chúng ta làm gì cho bà ?” Giêzê nói rằng: “Thầy khỏi hỏi, bà ấy không có con, và chồng bà đã già”. Êlisê bảo gọi bà ta. Nghe gọi, bà liền đến đứng trước cửa, ông nói với bà rằng: “Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai”.
ĐÁP CA: Tv 88, 2-3. 16-17. 18-19
Đáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: “Tình thương của Ta đứng vững muôn đời”; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. – Đáp.
2) Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. – Đáp.
3) Vì Chúa là vinh quang quyền năng của họ; nhờ ân huệ Chúa, uy quyền của chúng tôi được suy tôn. Bởi chưng khiên thuẫn chúng tôi là của Chúa, và vua chúng tôi thuộc về Đấng Thánh của Israel. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 6, 3-4. 8-11
“Chúng ta chịu mai táng với Ngài nhờ phép rửa, chúng ta phải sống đời sống mới”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi vì được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Đức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Mà nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng: chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã chết, tức là chết một lần dứt khoát đối với tội lỗi, mà khi Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Cả anh em cũng thế, anh em hãy tự kể như mình đã chết đối với tội lỗi, nhưng sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
TIN MỪNG: Mt 10, 37-42
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
“Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
B/ Phó tế Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
THEO ĐẠO LÀ BỎ CHA MẸ?
Theo lẽ tự nhiên, con cái phải kính yêu cha mẹ và cha mẹ cũng phải yêu thương con cái của mình. Khổng giáo có cả một kho triết lí dạy về Đạo hiếu: bổn phận của cha mẹ đối với con cái, bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Phật giáo cũng đã triệt để khai thác yếu tố nhân bản này để truyền đạo:
“Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”.
Thế mà, Chúa Giêsu – Đấng sáng lập ra Kitô giáo lại dạy chúng ta một điều có vẻ nghịch lý: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”. Chúng ta phải hiểu và sống lời Chúa dạy như thế nào?
Trước hết, chúng ta phải nói với nhau rằng: các tôn giáo chẳng hạn Phật giáo và Khổng giáo đều do những con người rất đức độ như Đức Phật, Đức Khổng lập nên. Còn Kitô giáo được một vị Thiên Chúa nhập thể làm người thiết lập. Kitô giáo là đạo yêu thương: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”,và chính Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người đã truyền dạy môn đệ rằng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Đức Giêsu đã lập nên đạo yêu thương, dạy người ta sống yêu thương. Hơn nữa, chính bản thân Người đã sống yêu thương nhân loại cho đến cùng: yêu hết mọi người, yêu cả kẻ thù, yêu cho đến chết trên thập giá.
Vâng theo lời Đức Giêsu dạy, các tín hữu thời Hội thánh sơ khai (thế kỉ I) đã rất mực yêu thương nhau; họ đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện, để mọi tài sản làm của chung, không để ai phải thiếu thốn thứ gì… đến nỗi những người ngoại đạo phải thốt lên: kìa xem họ thương nhau biết bao! (Cv 2,42-47). Cho nên, họ đã gọi “đạo Chúa” là “đạo yêu nhau”, mà đúng vậy, đạo Chúa là đạo tình yêu, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8.16).
Thế nhưng ngày nay, chúng ta vẫn nghe đâu đó một số người ngoại than phiền rằng:người Kitô giáo, người Công giáo ăn ở bất công với nhau, sống bất hiếu với cha mẹ… Hẳn điều đó có nhiều nguyên nhân: nguyên nhân chủ quan có thể là vì họ cố ý phê phán những khuyết điểm của Kitô giáo để đề cao đạo của họ. Nguyên nhân khách quan cũng có thể vì họ nhìn thấy người Công giáo chưa sống tận tình yêu thương tha nhân, mà cụ thể là chưa sống Lời Chúa dạy: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ” (Xh 20,12). Thực tế, ở nơi này, nơi kia vẫn có những gia đình người Công giáo chưa sống trọn Đạo hiếu: con cái thì bất hiếu với cha mẹ, cha mẹ thì bỏ bê không chăm sóc dạy dỗ con cái, trong khi vẫn dự lễ, đọc kinh ra rả… cách sống hai mặt như vậy đã làm cho người ta hiểu sai về đạo Chúa và những lời Đức Giêsu dạy: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”.
Ở đây, mặc nhiên Đức Giêsu dạy người ta hãy yêu cha yêu mẹ, cha mẹ hãy yêu con trai con gái của mình… Đức Giêsu chẳng những không cấm cản con cái thảo kính cha mẹ, trái lại Ngài nhấn mạnh luật truyền: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ” (Xh 20,12). Trong đoạn Tin Mừng Matthêu 7,11-13, Người đã gay gắt lên án những người Biệt phái nại vào lý do Phụng thờ Thiên Chúamà bỏ bê nghĩa vụ thảo kính cha mẹ. Cuộc sống của Đức Giêsu chỉ ra cho ta cách thức để sống tương quan con thảo với cha mẹ và với Chúa Cha.
Xét ở phương diện con người: khi sống tại Nazarét chính Đức Giêsu đã sống hiếu thảo với Thánh Giuse và Mẹ Maria, như Tin Mừng ghi lại “Người hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51).
Xét trên phương diện cứu chuộc: Đức Giêsuphải dành ưu tiên hơn cho việc thực thi kế hoạchcứu độ của ChúaCha: “cha mẹ không biết là con phải lo việc của Cha con sao?”(Lc 2,48-50)
Như thế, vì ơn cứu rỗi là cao quý trên hết, mà chỉ Thiên Chúa mới là nguồn ơn cứu độ của mọi người. Thế nên, Đức Giêsu dạy chúng ta phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự và trên hết mọi loài. Bởi vì Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng tốt lành trên hết, là nguồn gốc mọi sự và cùng sau hết mọi loài.
Đức tin Công giáo cho ta biết Đức Giêsu là Chúa. Vì Đức Giêsu đã bày tỏ quyền năng Thiên Chúa của Ngài bằng vô số phép lạ: cho người bị mù thấy được, người què đi được, kẻ chết sống lại… Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải yêu mến Chúa hơn cha mẹ; vì cha mẹ của ta là do Chúa sinh ra. Hơn nữa, cha mẹ ta dù yêu thương ta đến mấy cũng không thể ban cho ta sự sống đời đời được. Vả lại cha mẹ ta hẳn sẽ rất hạnh phúc khi ta dành tình trước hết cho Thiên Chúa – Đấng đã tạo dựng nên các ngài. Vậy nên, chúng ta hãy nghe và thi hành giáo huấn của Chúa Giêsu: hãy thảo kính cha mẹ, đồng thời yêu mến Thiên Chúa trên hết sự và hơn hết mọi loài.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con luôn biết khôn ngoan thực hành lời Chúa dạy ngay trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
C/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
BIẾT ĐÓN NHẬN THA NHÂN
I. DẪN NHẬP
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nhắc ta hãy lưu tâm đến việc tiếp nhận tha nhân, nhất là đón nhận những người nghèo hèn, bé mọn, cô thế cô thân, bị bỏ rơi… Đón tiếp tha nhân chính là đón nhận Chúa Kitô. Muốn đón tiếp phải có lòng yêu thương, thành thật, hy sinh, từ bỏ, tế nhị, cởi mở. Biết đón tiếp là bước khởi đầu của tình yêu. Chúa Giêsu hứa sẽ ban thưởng bội hậu cho những ai có lòng quảng đại biết tiếp rước những người nghèo hèn, làm phúc bố thí cho họ dù chỉ một bát nước lã.
Qua bài đọc sách Các Vua, một bà già son sẻ sang trọng miền Su-nêm rất giàu lòng quảng đại đã mời tiên tri Elisê dùng bữa khi tiên tri đi ngang qua. Do lòng quảng đại bác ái đó, bà đã khám phá ra đây là người của Thiên Chúa. Bà lại càng trân trọng tiếp đãi nồng hậu hơn: dọn phòng trên lầu, có giường, có ghế, có đèn… Qua nghĩa cử “cho khách đỗ nhà”, bà ta đã được đền đáp xứng đáng: sẽ có được con trai trong lúc hai ông bà đã cao niên.
Sự đón tiếp cần phải với tấm lòng. Đón tiếp vào nhà, với tinh thần chỉ có thể thực hiện nếu có sự đón tiếp với tấm lòng chúng ta, vì nói cho cùng, đón tiếp là tự hiến dâng: đấy là biết từ bỏ sự thoải mái riêng tư, sự yên tĩnh của mình để lo cho người khác. Một sự hiến dâng như thế chỉ có thể thực hiện theo lệnh của con tim chúng ta. Sự hiến dâng này chỉ đầy đủ ý nghĩa nếu nó biểu hiện sự đón tiếp từ trong lòng, làm cho tình thương nên trong sáng và bất vụ lợi. Chúa Giêsu đã nói: “Kẻ nào đón tiếp các ngươi là đón tiếp chính Ta”.
II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: 2V 4,8-11.14-16
Trên đường sứ mạng, ngày kia tiên tri Êlisê ghé thăm nhà một người đàn bà ở Su-nêm. Bà này tỏ ra rất quý trọng nhà tiên tri, vì bà coi ông là vị thánh của Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà đã dọn cho tiên tri một phòng ở trên lầu với đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào tiên tri cũng có thể đến trú ngụ.
Đáp lại tấm thịnh tình của bà, tiên tri đã cầu khẩn Thiên Chúa ban tặng cho bà một đứa con vì bà hiếm muộn và chồng bà đã già. Lời cầu xin của ông đã được chấp nhận. Ông nói với bà: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng” (2V 4,16).
+ Bài đọc 2: Rm 6,3-11
Bài đọc 2 chỉ là chủ đề phụ. Trong thư gửi cho tín hữu Rôma, thánh Phaolô dạy cho các tín hữu biết rằng: nhờ Phép Rửa chúng ta đã cùng được mai táng với Đức Kitô, và sẽ được cùng với Ngài sống lại hiển vinh, để hiệp thông một cách nhiệm mầu vào chính sự sống của Thiên Chúa: “Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô” (Rm 6,11).
+ Bài Tin mừng: Mt 10,37-42
Đức Giêsu đưa ra một điều kiện rất khắt khe đối với những người muốn bước theo Ngài. Theo Chúa thì phải yêu mến Ngài trên hết, trên cả cha mẹ vợ con và trên cả thân mình. Như vậy Ngài có ý nói theo Ngài thì không được để bị ràng buộc bởi gia đình.
Ngoài ra, Chúa đòi chúng ta yêu mến Ngài hơn tất cả trong việc vác thập giá theo Ngài và biết đón tiếp người khác nhất là những người bé mọn. Điều này đòi hỏi người theo Chúa phải quên mình. Quên mình là từ bỏ những gì liên quan đến con người và mọi liên hệ của bản thân từ sự sống cho đến tình cảm.
III. THỰC HÀNH LỜI CHÚA:
THƯƠNG NGƯỜI CÓ MƯỜI BỐN MỐI
Mỗi sáng Chúa nhật chúng ta đều đọc kinh “Thương người có mười bốn mối”: 7 mối quy về thể xác và 7 mối quy về tinh thần, nghĩa là thương con người toàn diện. Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta phải lưu tâm tiếp đón mọi người, không những phải tiếp đón các sứ giả của Chúa một cách cẩn trọng mà còn đón tiếp tất cả những kẻ bé mọn vì tất cả đều là môn đệ của Chúa.
1. BÀI HỌC CHÚA DẠY HÔM NAY
Nhà triết học hiện sinh Pháp, ông Jean Paul Sartre, có nói một câu làm cho chúng ta ngạc nhiên: “L’enfer c’est les autres”: Tha nhân là hỏa ngục đối với ông. Thật là một câu nói quái gở vì nó đi ngược hoàn toàn với Tin mừng.
Tha nhân là ai? Họ ở đâu? Làm thế nào tìm được họ? Thưa, họ là mọi người ở quanh chúng ta, chúng ta có thể tìm thấy dễ dàng, có thể động chạm đến họ. Nếu chúng ta hỏi Chúa Giêsu: người khác hay tha nhân là ai? Chúa Giêsu sẽ trả lời ngay: “Tha nhân chính là Ta” bởi vì Ngài đã khẳng định: “Sự gì ngươi làm cho một người bé mọn nhất vì danh Ta, là làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đòi buộc các môn đệ của Chúa phải yêu mến Chúa trên hết, hơn cả cha mẹ anh em, ngay cả mạng sống của mình. Đây là một đòi hỏi rất khắt khe và dứt khoát. Sau đó, Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy tiếp đón các môn đệ của Chúa.
Trước hết để xác định sự duy nhất giữa Đấng sai đi và người được sai đi: “Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Sau đó, để phân biệt chi tiết sự đón nhận theo ba mức độ giảm dần một cách nghịch lý: các “tiên tri”, những “người công chính”, những “kẻ bé mọn”, và long trọng xác nhận họ có tư cách xứng đáng là sứ giả của Phúc âm.
Các “tiên tri” hiển nhiên là những Kitô hữu. Họ đã thi hành một tác vụ được chấp nhận trong Giáo hội sơ khai.
Những “người công chính” có lẽ là những thành phần được kính trọng trong cộng đoàn Kitô hữu.
Còn những “kẻ bé mọn” là các môn đệ, họ chẳng làm gì hơn là “tin” vào Đức Kitô. Họ cũng đáng được trân trọng và yêu mến đặc biệt (Fiches dominicales, năm A, tr 215).
Tất cả những điều nói trên chung quy lại cũng chỉ nói về “môn đồ Chúa Giêsu”, nghĩa là Kitô hữu thông thường, kẻ được sai đi và liên kết với sứ mạng của Thầy mình. Ngay cả người Kitô hữu khiêm hạ nhất, tức là kẻ “bé mọn”, cũng có thể gán cho mình những điều đã nói trên.
Ta phải lưu tâm đến hết mọi người và phục vụ họ ngay cả trong những chuyện tầm thường nhất, như cho một ly nước lã. Vì bất cứ một sự lưu tâm nào đối với kẻ “bé mọn” nhất cũng là một sự lưu tâm đối với Chúa. Khi mở rộng lòng mình cho tha nhân như thế, ta sẽ “được sự sống” là điều duy nhất có thể làm cho ta thoả mãn.
2. GƯƠNG SÁNG VỀ SỰ ĐÓN TIẾP
Trong Kinh thánh chúng ta thấy còn ghi lại một vài nét đẹp của sự tiếp đón đáng cho chúng ta bắt chước. Những gương sáng này vẫn luôn giữ được tính cách thời sự của nó.
2.1. Ông Abraham (St 18)
Ông là một con người hiếu khách và quảng đại. Khi thấy ba khách lạ đang đi trong sa mạc nắng cháy, không những ông mời mà còn năn nỉ họ vào nhà nghỉ và ân cần săn sóc họ một cách chu đáo. Ba người khách lạ đó là ai? Đó là ba sứ giả của Thiên Chúa.
Đáp lại tấm thịnh tình và lòng quảng đại của ông, ba sứ giả ban cho vợ chồng hiếm muộn này một đứa con trai đầu lòng. Đó là cậu Isaác.
2.2. Một gia đình ở Su-nêm
Khi tiên tri Elia qua Su-nêm, một bà giàu có rất hiếu khách đã mời Elia vào nhà dùng bữa với sự săn sóc tỉ mỉ. Bà còn dọn cho tiên tri một phòng trên gác đầy tiện nghi để tiên tri có thể lui tới tự do.
Đáp lại tấm lòng quảng đại của bà, Elia cũng hứa ban cho bà một đứa con vì bà son sẻ: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng” (Bài đọc 1).
2.3. Gia đình ba chị em ở Bêtania
Chúa Giêsu rất thương ba chị em này, mỗi khi đi qua Bêtania, Chúa và các môn đệ thường ghé thăm chị em và nghỉ ngơi. Chị cả Matta rất hiếu khách, dọn cho Chúa những bữa ăn ngon. Còn cô em Maria đón tiếp Chúa bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà nghe Ngài dạy dỗ, cách đón tiếp này cũng làm cho Chúa rất hài lòng. Còn Lagiarô là đàn ông thì tiếp theo kiểu đàn ông là nhậu và chuyện trò với Chúa.
Đáp lại sự đón tiếp ân cần và thành thực của ba chị em, Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô sống lại sau khi chết bốn ngày.
Truyện: Một nghĩa cử tuyệt đẹp
Một hôm, hoàng đế Napoléon của Pháp vào một nhà hàng nọ. Đi theo hoàng đế chỉ có một vị sĩ quan tùy viên. Vì không muốn cho ai nhận ra mình là hoàng đế, nên Napoléon và viên sĩ quan cận vệ cải trang ăn mặc như thường dân.
Sau khi đã ăn uống xong, bà chủ nhà hàng đến tính tiền. Tổng cộng số tiền phải trả là 14 quan. Viên sĩ quan cận vệ mở chiếc cặp xách tay để lấy tiền. Bỗng mặt ông tái mét đi vì trong cặp không có đồng tiền nào cả.
Thấy thế, Napoléon hiểu ý nói nhỏ với viên sĩ quan: “Đừng lo, để tôi trả cho”. Nói rồi ông móc túi lấy tiền. Nhưng sờ túi trên, túi dưới, túi trước, túi sau, ông không thấy có đồng tiền nào cả. Napoléon nhìn viên sĩ quan nhướng mắt, nhún vai.
Trước tình thế đó, viên sĩ quan nói với bà chủ:
– Thật là rủi ro cho chúng tôi, chúng tôi quên không đem tiền theo. Xin bà vui lòng cho tôi thiếu một tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ trở lại thanh toán với bà được không?
Bà chủ nhất định không chịu và dọa rằng nếu hai người không chịu trả tiền ngay, thì bà sẽ gọi cảnh sát.
Một anh bồi bàn theo dõi công việc từ đầu cảm thông với hai người khách nên nói với bà chủ:
– Quên đem tiền trong túi, đó là điều thường xảy ra. Vì thế, xin bà đừng gọi cảnh sát làm gì! Theo tôi thì hai ông đây là người rất thật thà, không có ý lường gạt đâu.
Nghe anh bồi bàn nói, bà chủ vẫn không chịu và cứ nằng nặc đòi kêu cảnh sát.
Thấy thế, anh bồi bàn móc túi lấy ra 14 quan trao cho hai người khách và nói: “Đây tôi cho hai ông mượn để thanh toán với bà chủ”.
Thế là nhờ anh bồi bàn mà Napoléon và viên sĩ quan mới có thể rời khỏi nhà hàng.
Một lát sau, viên sĩ quan tùy viên trở lại nhà hàng. Ông gặp lại bà chủ và nói:
– Bà đã tốn kém mất bao nhiêu để tạo lập nhà hàng này?
Bà chủ trả lời:
– 30.000 quan.
Viên sĩ quan mở chiếc cặp da xách tay lấy ra 30.000 quan đặt trên bàn và nói:
– Vâng lệnh của chủ tôi là hoàng đế Napoléon, tôi xin bà sang lại nhà hàng này cho anh bồi bàn, người đã giúp chúng tôi đang lúc chúng tôi kẹt không có tiền.
3. CÁCH THỨC ĐÓN TIẾP
Trong việc tiếp đón, người ta phải chú ý đến phương diện vật chất và tinh thần. Phương diện nào cũng quan trọng để làm cho khách được hài lòng, nhưng phương diện tinh thần thì quan trọng hơn.
3.1. Phương diện vật chất
Khi đón khách vào nhà, ai cũng muốn khách được hài lòng: dọn dẹp nhà cửa, trang bị đồ dùng cần thiết, cơm nước ngon lành… Phần trang bị vật chất càng đầy đủ càng nói lên lòng hiếu khách, nếu không sợ khách phê bình “khẩu thiệt đãi chi”. Gia đình ở Su-nêm chẳng những đón tiếp tiên tri Êlia, mà còn dọn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới đã có chỗ trọ. Dĩ nhiên, mến khách thì càng tốn kém, nhưng đó là điều kiện bắt buộc.
3.2. Phương diện tinh thần
Khía cạnh tinh thần trong việc đón tiếp khách mới là quan trọng. Người đời thường nói: “Người ta thèm lòng chớ không thèm thịt” hoặc câu khác: “Cách cho thì quý hơn của cho”. Cách tiếp đón quý ở chỗ thành thực, quảng đại và cởi mở, chú trọng đến con người hơn là của cải. Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khác và đáp ứng theo khả năng của mình.
Đối với hai trường hợp đón tiếp khách ở trên, tại sao những chủ nhà ấy quảng đại đón tiếp khách? Thưa, vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn quan tâm tới người khác.
Abraham lo cho ba người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ ngơi để lấy sức.
Gia đình ở Su-nêm lo sợ tiên tri Êlia phải bơ vơ nơi miền đất lạ, không có chỗ nương nhờ trong hoàn cảnh khó khăn đó.
Gia đình ở Bêtania thì muốn dành cho Chúa Giêsu và môn đệ có chỗ nghỉ ngơi sau những ngày giờ làm việc mệt nhọc. Gia đình kiếm cho Chúa có chỗ dừng chân mỗi khi đi qua Bêtania.
4. PHẦN THƯỞNG DÀNH CHO SỰ ĐÓN TIẾP
Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát: mất thì giờ, mất tiền của, mất công… Nhưng tất cả sẽ được Chúa thưởng công cho ở đời này hay đời sau.
Trở lại ba việc đón tiếp trên, phần thưởng của lòng quảng đại ấy là gì? Là sự sống: hai đứa con đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Lagiarô đã chết bốn ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.
Theo bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã khẳng định không có việc gì làm cho người khác mà bị bỏ quên, Chúa ghi nhớ tất cả và sẽ thưởng công cho, mặc dù việc ấy rất nhỏ nhặt: “Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống chỉ một bát nước lã thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”.
Đến ngày phán xét, ngày thưởng phạt đích đáng, Chúa Giêsu sẽ nói với mọi người chúng ta: “Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Ngược lại là chúng ta đã không làm cho Chúa và sẽ phải lãnh hình phạt đời đời.
Truyện: Một chén ân tình
Willton Rix có kể một câu chuyện đầy kịch tính như sau:
Vào sáng một mùa đông tuyết lạnh, Sadhu Sundar Singh và một người bạn du lịch qua miền núi Bắc Ấn độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến hai người phải chống trả hết sức khó khăn.
Đang lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, họ lại thấy một người đàn ông nằm vất vưởng bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại để cứu giúp người bị nạn, nhưng bạn ông cho rằng, nỗ lực ấy chỉ hoài công thôi. Vì để cứu lấy chính mình trong lúc này cũng đã vất vả lắm rồi. Và ông bạn ấy đã bỏ đi.
Chạnh lòng thương, Sadhu ở lại bên cạnh kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân con người dở sống dở chết ấy. Với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh ta trên lưng và khó nhọc đi qua vùng bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến người kia hồi sinh và cả hai cùng mạnh sức.
Đi khoảng một dặm, họ kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết lạnh cóng bên vệ đường. Họ càng sững sờ hơn nữa khi nhận ra đó chính là anh bạn cùng đi với Sadhu sáng nay (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, tr 85).
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn đưa ra một điều kiện nghịch lý cho các môn đệ Người theo: “Ai giữ mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,39). Cứ thực hành đi rồi sẽ thấy nó không nghịch lý nữa.
Chúng ta thấy nghĩa cử yêu thương của Sadhu đã minh chứng hùng hồn cho lời nói của Chúa Giêsu ở trên. Bạn của Sadhu đã cố giữ lấy mạng sống mình nên đã mất mạng, còn Sadhu liều mạng “vì anh em” nên đã được sống. Một người không có khả năng từ bỏ mình vì anh em thì họ cũng không có khả năng yêu thương. “Phải liều mất đi” để “tìm thấy lại”. Đó là nghịch lý mà Chúa Giêsu đã trải qua để nêu gương cho chúng ta. Người đã sẵn lòng chịu chết ô nhục để rồi sống lại vinh quang cũng để nói lên lời yêu thương con người.
Mỗi ngày Chúa nhật đọc kinh “Thương người có 14 mối”, chúng ta hãy xem lại con người chúng ta còn thiếu sót những mối nào trong kinh ấy, hãy cố gắng thực hiện tất cả. Mỗi lần chúng ta làm cho tha nhân điều gì thì đó là chúng ta đang làm cho Chúa dù cho người bé mọn chỉ một chén nước lã thôi.
“Một chén nước lã” đối với Chúa là “một chén ân tình”. Điều đó cho thấy, Thiên Chúa không hề bỏ sót một nghĩa cử yêu thương nào, cho dù chỉ là nghĩa cử bé nhỏ âm thầm, một khi đã được khoác vào tấm áo tình yêu thì nó trở nên vô cùng cao cả. Tình yêu chính là trọng tâm của đời sống Kitô hữu.
D. Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD
Bối cảnh
Mt 10,37-42 là phần cuối cùng của “bài giảng về sứ vụ”, một trong năm bài giảng Đức Giêsu thực hiện trên hành trình rao giảng, theo sắp xếp của tác giả Mátthêu. Trong bối cảnh trực tiếp, đoạn văn này đi liền sau những lời giảng Đức Giêsu nói liên quan đến sự xung đột giữa các thành viên trong gia đình trước sự hiện diện của Đức Giêsu. Những lời giảng này được khời đầu bằng khẳng định ngược đời là: Tôi đến không phải để mang hoà bình nhưng là thanh gươm, và kết thúc bằng khẳng định nghiệt ngã: Kẻ thù của một người sẽ là những người thuộc gia đình của mình (Mt 10,34-36). Quay trở lại xa hơn, độc giả cũng gặp điều tương tự khi Đức Giêsu cảnh báo về thực tế phũ phàng là các sứ giả sẽ bị chính những người thân của mình trao nộp (Mt 10,21). Ý niệm “vác thập giá” và “đi theo sau” sẽ được lặp lại trong Mt 16,24 dưới dạng một lời mời gọi. Và người vác thập giá đi theo sau Đức Giêsu trên đường ra pháp trường là ông Simôn nguồi Kyrênê (Mt 27,32). Tính chất bắc cầu nối kết việc tiếp đón các sứ giả với sự đón tiếp Đức Giêsu và nối kết sự đón tiếp Đức Giêsu với đón tiếp Chúa Cha, được tìm thấy trong Ga 13,20. Thái độ đón tiếp kẻ nhỏ bé bằng hành động cho uống một chén nước lạnh, nối kết với sự kiện Đức Giêsu tự đồng hoá mình với những kẻ bé nhỏ đang khát (Mt 25,35.42).
Cấu trúc
Người không xứng đáng với Đức Giêsu (cc.37-38)
Người yêu cha hoặc mẹ hơn tôi
Người yêu con trai hay con gái hơn tôi
Người không nhận lấy thập giá của mình và đi theo sau tôi
Người tìm linh hồn mình sẽ đánh mất (c.39)
Người tìm kiếm linh hồn mình thì sẽ đánh mất nó
Người đánh mất linh hồn mình vì tôi sẽ tìm được nó
Người đón tiếp… được phần thưởng (cc. 40-42)
Người đón tiếp anh em là đón tiếp tôi
Người đón tiếp tôi là đón tiếp Đấng đã sai tôi.
Người đón tiếp một ngôn sứ vì danh xưng một ngôn sứ,
sẽ nhận được phần thưởng của một ngôn sứ,
Người đón tiếp một người công chính vì danh xưng người công chính,
sẽ nhận được phần thưởng của một người công chính.
Người cho một trong những người bé nhỏ nhất một cốc nước lạnh,
vì danh xưng của một môn đệ,
sẽ không mất phần thưởng của mình đâu.
Một vài điểm chú giải
1. Yêu cha hoặc mẹ hơn Tôi … yêu con trai, con gái hơn Tôi, không xứng đáng với Tôi:
Tác giả Luca dùng ngôn ngữ gắt hơn Matthêu một tý: “Nếu ai đến với Tôi mà không ghét chính cha, mẹ, vợ, con, anh em và chị em của mình, thậm chí chính mạng sống mính, người đó không thể là môn đệ của Tôi được” (Lc 14,26). Điều thứ năm trong Thập Điều (điều thứ bốn theo lời kinh của Công Giáo) dạy những người Do Thái “phải làm vinh danh cha mẹ, để được sống lâu trong miền đất mà Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã ban cho ngươi” (Xh 20,12; Đnl 5,16). Sách Lêvi cũng nhắc nhở rằng: “Mỗi người trong anh em phải kính trọng cha mẹ” (Lv 19,3; Xh 20,12). Sách Huấn Ca dạy rằng: “Ai làm vinh danh cha sẽ khỏa lấp lỗi lầm, ai tôn vinh mẹ như tích trữ kho tàng” (Hc 3,3-4). Điều này chứng tỏ rằng, yêu mến và kính trọng cha mẹ là một điều răn rất quan trọng trong Luật của người Do Thái. Đức Giêsu cũng rất cọi trọng luật yêu mến kính trọng cha mẹ: “Thiên Chúa dạy hãy làm vinh danh cha và mẹ, kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử. Còn các ông nói rằng: ‘những gì con có để giúp cha mẹ đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi thì người ấy không cần phải làm vinh danh cha mẹ nữa’” (Mt 15,4-6). Nói như thế để thấy rằng, những điều Đức Giêsu đòi hỏi không mâu thuẫn gì với điều luật hiếu kính cha mẹ. Câu nói: Người nào yêu cha và mẹ hơn Tôi thì không xứng đáng với tôi được đặt trong bối cảnh rõ ràng. Trước đó, Đức Giêsu nói về việc Người đến không phải mang bình an mà là thanh gươm. Cụ thể, Đức Giêsu nói rằng Người “đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng, kẻ thù của mình là người nhà” (Mt 10,34-36). Sự chia rẽ nhất thiết phải xảy ra giữa những người tin nhận Đức Giêsu và những người không tin nhận Đức Giêsu. Ngay cả trong một gia đình, vẫn có một sự phân chia như vậy. Trong trường hợp người cha và người mẹ không tin nhận Đức Giêsu, và những người con “yêu thương cha mẹ hơn Đức Giêsu”, đồng nghĩa với việc họ phải chối bỏ Đức Giêsu. Tương tự, một khi con trai hay con gái không tin nhận Đức Giêsu mà cha mẹ lại yêu những người con này hơn Đức Giêsu, thì đồng nghĩa với việc họ chối bỏ Người. Câu nói “yêu cha yêu mẹ hơn” hay “yêu con trai, con gái” hơn Đức Giêsu, “không xứng với” Người có thể được hiểu theo một chiều hướng ưu tiên trong tình yêu.[1] Tình yêu dành cho Đức Giêsu là nguồn cội và là nền tảng của mọi tình yêu trong nhân loại. Tình yêu đích thực mà người ta dành cho cha mẹ phải phát xuất từ tình yêu dành cho Đức Giêsu như là Thiên Chúa. Nói cách khác, sở dĩ người ta yêu cha mẹ là vì họ yêu Chúa, và nghe lời Chúa truyền. Ngược lại tình yêu cha mẹ dành cho con cái, hoặc con cái dành cho cha mẹ, đôi khi không dẫn đến tình yêu dành cho Chúa, đôi khi tình yêu giữa những người thân trong gia đình khiến họ rời xa Thiên Chúa và huấn lệnh của Người. Trong Thập Điều, nếu để ý, chúng ta dễ nhận ra rằng, bốn điều Luật đầu tiên dạy người ta lòng yêu mến và kính sợ Thiên Chúa: (1) Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Ðấng đã đem ngươi ra khỏi đất Aicập, khỏi nhà tôi mọi; (2) Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta; Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ; (3) Ngươi không được dùng danh Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng; (4) Ngươi hãy nhớ ngày sabát, mà coi đó là ngày thánh (Xh 20,2-11). Điều thứ năm mới là “hãy làm vinh danh cha mẹ, để được sống lâu trên miền đất mà Chúa, Thiên Chúa người ban cho ngươi”. Hơn nữa, sách Đệ Nhị Luật quy định rất mạnh về tình yêu dành cho Chúa: “Hãy nghe, hỡi Israel, Chúa, Thiên Chúa chúng ta, Chúa là một (duy nhất). Phải yêu Chúa, Thiên Chúa của ngươi với tất cả con tim ngươi và với tất cả linh hồn ngươi và với toàn thể trí óc ngươi. Những lời này mà Ta truyền cho ngươi hôm nay phải ở trên tim của ngươi. Ngươi phải dạy chúng cho những đứa con của ngươi, và phải nói về chúng khi ngươi ngồi trong nhà, và khi ngươi đi bộ trên đường và khi ngươi nằm nghỉ và khi ngươi thức dậy” (Đnl 6,4-7).
2. Không nhận lấy thập giá[2] của mình và đi theo sau tôi:
Câu nói này gồm hai vế song đối với nhau: “Nhận lấy thập giá của mình” và “đi theo sau” Đức Giêsu. Đại từ sở hữu “của người ấy” (αὐτοῦ) xác định rõ rằng thập giá là của cá nhân mỗi người, không phải là thập giá của Đức Giêsu. Hành vi vác lấy thập giá nối kết chặt chẽ với hành trình thập giá của Đức Giêsu.[3] Đức Giêsu đã vác thập giá lên đồi Golgôtha rồi chịu đóng đinh và chịu chết. “Đi theo sau” theo nghĩa đen là họa lại, đi lại con đường mà Đức Giêsu đã đi năm xưa. “Đi theo sau” Đức Giêsu, theo nghĩa rộng, cũng là hình ảnh của người môn đệ. Thập giá trong bối cảnh này mang giá trị biểu tượng. Nó tượng trưng cho tất cả những đau khổ, sỉ nhục, và chết vì yêu. Điều cốt lõi trong hành trình thập giá chính là tình yêu. Tình yêu là động lực, là sức sống giúp người ta có thể đón nhận thập giá và đi theo Chúa cho đến cùng. Trước đó Đức Giêsu đã dùng đến hai lần danh động từ “yêu”: Người yêu (ὁ φιλῶν) cha và mẹ hơn Tôi; Người yêu con trai và con gái hơn Tôi. Yêu cha và mẹ hay yêu con trai con gái ít hơn Đức Giêsu có thể cũng là một hình thức vác thập giá để đi theo sau Đức Giêsu. Trong Tin Mừng Mátthêu, ngay sau khi ông Phêrô ngăn cản Đức Giêsu đi vào cuộc thương khó, Đức Giêsu nói cùng ông rằng: “Đi về phía sau Tôi, Satan, anh là nguyên nhân vấp ngã của Tôi, vì anh không nghĩ điều của Thiên Chúa nhưng là những điều của con người”. Rồi Đức Giêsu nói cùng các môn đệ: “Nếu ai muốn đi theo sau Tôi, người ấy hãy từ bỏ chính mình và nhận lấy thập giá của mình và đi theo Tôi” (Mt 16,23-24). Trong bối cảnh này, rõ ràng Đức Giêsu đang muốn các môn đệ đón nhận cuộc thương khó của Người và săn sàng chịu đau khổ và chết như Người.
3. Tìm kiếm linh hồn … đánh mất … đánh mất linh hồn … tìm được:
Cùng với ý tưởng “vác thập giá và đi theo phía sau” là lời khẳng định: “Người tìm kiếm mạng sống của mình sẽ đánh mất nó, và người đánh mất mạng sống mình vì Tôi sẽ tìm thấy nó”. Tác giả Mitch – Sri diễn giải ý nghĩa của câu nói này như sau: “Những ai tìm kiếm hạnh phúc trong đời sống bằng cách theo đuổi những sở thích của mình sẽ không bao giờ hoàn tất. Chỉ có bằng cách trao ban chính mình cho Thiên Chúa và người khác, chúng ta mới trải nghiệm được hoàn tất cuối cùng mà Thiên Chúa muốn chúng ta có được”.[4] Trong Mt 16,25, Đức Giêsu lặp lại điều tương tự nhưng thay động từ “tìm kiếm” (εὑρίσκω) trong vế thứ nhất bằng động từ “cứu” (σῶσαι):
“Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất nó”. Như vậy, “tìm kiếm” trong bối cảnh này có thể mang nghĩa là “cứu”. Đức Giêsu của Gioan diễn tả ý tưởng này bằng cách khác: “Ai yêu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai ghét mạng sống mình trong thế giới này sẽ giữ được nó trong sự sống vĩnh cửu” (Ga 12,25). Danh từ “mạng sống” có thể được hiểu theo hai nghĩa: (1) Mạng sống mà người ta cố tìm, và sẽ đánh mất, chính là mạng sống đời này, như Đức Giêsu của Gioan đã nói; (2) Mạng sống mà người ta sẵn sàng “đánh mất vì” Đức Giêsu[5], cũng là mạng sống ở đời này, và mạng sống người ta “sẽ tìm thấy” là “mạng sống trong sự sống vĩnh cửu”. “Sự sống vĩnh hằng” (ζωὴν αἰώνιον) là phần thưởng mà Đức Giêsu hứa cho những ai “bỏ nhà cửa, hay anh em, chị em, hay cha, mẹ, hay con cái, hay ruộng vườn vì danh Người” (Mt 19,24). Đức Giêsu của tác giả Máccô, còn hứa cho các môn đệ sự “ngược đãi”, ngoài “phần thưởng gấp trăm và sự sống vĩnh hằng đời sau” (Mc 10,30). Đánh mất mạng sống trong bối cảnh này bao gồm cả tiến trình “nhận lấy thập giá của mình và đi theo” Đức Giêsu, mức độ cuối cùng của việc theo Đức Giêsu là cái chết. Đức Giêsu đã chết trên thập tự và đã phục sinh. “Tìm được mạng sống” là được sống lại và sống mãi mãi hạnh phúc với Chúa. Trước đó, Đức Giêsu đã khích lệ các môn đệ rằng: “Đừng sợ những kẻ giết chết thân xác, nhưng không làm gì được linh hồn; Tốt hơn, hãy sợ Đấng có thể giết chết cả linh hồn lẫn thể xác trong gheenna” (Mt 10,28). “Tìm mạng sống” có thể hiểu như là “sợ những kẻ giết chết thân xác”. Mệnh đề “đánh mất mạng sống” được định rõ mục đích là “vì Tôi” (ἕνεκεν ἐμοῦ). “Vì Đức Giêsu” trong bối cảnh trực tiếp là “vì nhìn nhận Người trước mặt người ta” (Mt 10,34).
4. Ai đón tiếp anh em … đón tiếp tôi … ai đón tiếp tôi … đón tiếp Đấng đã sai tôi:
Phần này dường như Đức Giêsu nói về những người thính giả của Tin Mừng. Tác giả D. Harrington xem câu này như câu nói mang tính Kitô học cao nhất trong bối cảnh bài giảng về sứ vụ của Matthêu. Tác ghi chú rằng Kitô học “sai đi” mặc dù được phát triển hơn trong Tin Mừng Gioan, cũng xuất hiện trong Tin Mừng Mátthêu. Nó làm nảy sinh quan điểm xem cuộc sống Kitô hữu như là một dây chuyền sứ vụ: Cha sai người Con, vì vậy, người Con sai các môn đệ.[6] Nhiều nhịp cầu nối tiếp được nối bằng động từ “đón tiếp” được lặp lại liên tục (bốn lần). Các nhịp cầu này nối từ bất cứ ai lên đến Thiên Chúa.[7] Điều mà một người phải làm để nối kết với Thiên Chúa là hành vi “đón nhận” (đón tiếp, δέχομαι). Các môn đệ là những sứ giả của Đức Giêsu, và họ ra đi để mang Tin Vui Nước Trời, cũng như làm nhiều điều tốt lành cho con người. Tuy vậy, không phải bất cứ ai, ở bất cứ nơi nào, có thể đón nhận họ. Thực tế, họ có rất nhiều người chối từ và thậm chí bách hại họ nữa. Vấn nạn chối từ và cách thức để ứng xử với những nơi chối từ, đã được Đức Giêsu hướng dẫn trước đó: “Nếu ai không đón nhận anh em hay lắng nghe lời của anh em, hãy giũ bụi từ bàn chân của anh em lại khi rời nhà đó hay thành đó” (Mt 10,14). Việc đón tiếp, hay đón nhận, không đơn thuần chỉ là một cử chỉ hiếu khách, hay hành vi ngoại giao. Đón tiếp sứ giả Tin Mừng, đồng nghĩa với việc lắng nghe và đón nhận thông điệp Tin Mừng Nước Trời, tin vào Đức Giêsu và hoán cải theo lời mời gọi của Người.[8] Các sứ giả là hiện thân cho Đức Giêsu qua lối sống, đức tin và thông điệp họ rao giảng. [9] Đức Giêsu là hiện thân của Đấng đã sai Người vì “Người và Chúa Cha là một” (Ga 10,30), “Người được Cha trao phó mọi sự, và biết rõ Cha” (Mt 11,27; Ga 13,3), và Người thi hành điều Cha muốn (Ga 5,19; 8,28.42; 12,49; 14,10). Đón tiếp các sứ giả, đồng nghĩa với đón tiếp Đức Giêsu và đồng nghĩa với đón tiếp Chúa Cha, đồng nghĩa với việc tin nhận Đức Giêsu cũng như sứ điệp của Người và nhận lấy thập giá của mình mà bước theo sau Người.
5. Ai đón tiếp một ngôn sứ vì danh xưng của một ngôn sứ …… đón tiếp một người công chính vì danh xưng của một người công chính:
Các sứ giả của Đức Giêsu được xem như là một ngôn sứ vì họ thực thi sứ mạng rao giảng và chữa lành như Người.[10] Cụm giới từ “vì danh xưng của một ngôn sứ… vì danh xưng của một người công chính” thường được hiểu là “vì người ấy là một ngôn sứ” (CGKPV); “vì danh nghĩa là tiên tri” (NTT) … “vì người ấy là người công chính” (CGKPV); “Vì danh nghĩa là công chính” (NTT). Danh xưng “ngôn sứ” rõ ràng có ý nghĩa trong “bài giảng về sứ vụ”, được khởi đầu bắng việc Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ đến và sai họ đi. Vậy thì, danh xưng “người công chính” có ý nghĩa gì trong khuôn khổ bài giảng này? Nếu như danh xưng “một ngôn sứ” nhấn mạnh đến hoạt động rao giảng của các sứ giả, thì danh xưng “một người công chính” biểu lộ căn tính và lối sống của người môn đệ. Đời sống của các môn đệ là minh chứng thuyết phục cho lời rao giảng của họ. Quay trở lại bài giảng đầu tiên, còn gọi là “bài giảng trên núi”, bài giảng mô tả căn tính và lối sống của các môn đệ, chúng ta sẽ thấy được tầm quan trọng của “sự công chính”. Trước hết, các môn đệ được cảnh báo rằng: “Nếu sự công chính của anh em không vượt hơn sự công chính của các Kinh Sư và những người Pharisêu thì anh em sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Hơn nữa, trong tám mối phúc, có đến hai mối phúc liên quan đến “đức công chính”: (i) “Phúc cho những người đói và khát sự công chính, vì họ sẽ được thỏa mãn” (5,6); (ii) “Phúc cho những người chịu bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ”. Ngoài ra, các môn đệ cũng được mời gọi rằng “trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất những thứ này sẽ được thêm cho anh em” (Mt 6,33). Như thế, “người công chính” ở đây có thể hiểu là các sứ giả của Đức Giêsu, cách riêng nhóm mười hai môn đệ.
6. Phần thưởng của một ngôn sứ … phần thưởng của một người công chính… phần thưởng của mình:
Mátthêu là tác giả dùng nhiều danh xưng “phần thưởng” nhất trong cả bốn tác giả sách Tin Mừng (Mt 8 lần: 5,12.46; 6,1.2; 10,412.42; 20,8; Mc 1 lần: 9,41; Lc 3 lần: 6,23.35; 10,7; Ga 1 lần: 4,36). Có ba lần danh từ “phần thưởng” (μισθὸν) được lặp lại trong cc. 41-42: “Phần thưởng của một ngôn sứ”; “Phần thưởng của một người công chính” và “phần thưởng của mình”. Trong các phần thưởng vừa liệt kê, phần thưởng của “một người công chính” xem ra rõ ràng nhất: “Được vào Nước Trời”, hay “được sở hữu Nước Trời”. Có thể nói đây là phần thưởng cao nhất, lớn nhất bao hàm tất cả mọi phần thưởng khác. “Phần thưởng của người ngôn sứ” có thể liên quan đến “phần thưởng lớn trên trời”. Trong mối phúc mở rộng Đức Giêsu nói: phúc cho anh em khi người ta sỉ nhục và bắt bớ anh em và đưa ra đủ loại xấu xa chống lại anh em cách sai lầm vì Tôi, anh em hãy vui mừng và phấn khởi vì phần thưởng của anh em trên trời thật nhiều, vì họ đã bách hại các ngôn sứ trước anh em như vậy” (Mt 5,11-12). Trong Mt 13,17 và 23,29, “các ngôn sứ” được liệt kê bên cạnh “những người công chính”. Trong trình thuật cánh chung, liên quan đến cuộc xử án, “những người công chính” là “những người bên phải”, là những người đã cho những người bé nhỏ ăn, uống, mặc; thăm viếng người đau yếu, tù nhân; tiếp rước khách lạ (Mt 25,31-40). Phần thưởng dành cho những người công chính là “được thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ ngay từ thuở tạo dựng thế giới”, và “được hưởng sự sống đời đời” (Mt 25,46b). Đối lại với những người công chính là những người bị nguyền rủa và hình phạt dành cho họ là “đi vào hình phạt đời đời” (Mt 25,46a).
7. Ai cho một trong những người bé nhỏ nhất một cốc nước lạnh vì danh của một người môn đệ:
Mc 9,41 nói là “ai cho anh em một chén nước (ποτήριον ὕδατο) vì anh em thuộc về Đức Kitô, amen, Tôi bảo anh em, người ấy sẽ không mất phần thưởng của mình”, Mt 10,42 sửa lại là “ai cho một trong những người bé nhỏ này (ἕνα τῶν μικρῶν τούτων) dù chỉ (μόνον) một chén nước lạnh vì danh nghĩa của một môn đệ (εἰς ὄνομα μαθητοῦ), amen, Tôi bảo anh em, người ấy sẽ không mất phần thưởng của mình đâu”. Có thế thấy tác giả Mátthêu dùng danh xưng “một trong những người bé nhỏ này” thay cho “anh em”. Các môn đệ, cụ thể là nhóm mười hai người, được gọi là “những người bé nhỏ”. “Một trong những người bé nhỏ” là cách nói đặc trưng của tác giả Mátthêu. Đức Giêsu gọi những người tin vào Người là “một trong những người bé nhỏ” (Mt 18,6); Người dạy “coi chừng, đừng khi dễ một trong những người bé nhỏ này vì trên trời, thiên sứ của họ luôn nhìn ngắm khuôn mặt của Cha Tôi, Đấng ở trên trời” (Mt 18,10); Người gọi những “con chiên lạc” là những người bé nhỏ (Mt 18,12). Cụm giới từ “vì danh nghĩa của một người môn đệ” cũng là từ ngữ của riêng Mátthêu. Cụm từ này ứng với hai cụm từ trước đó “vì danh nghĩa của một ngôn sứ”; “vì danh nghĩa của một người công chính”. Cả ba danh xưng: “Ngôn sứ, người công chính, người môn đệ” có thể dành cho các sứ giả của Chúa. “Cốc nước” trong Máccô, được đổi thành “cốc nước lạnh” và thêm trạng từ nhấn mạnh “chỉ một” (μόνον).[11] Cách nói “dù chỉ một cốc nước lạnh … không mất phần thưởng” nhấn mạnh đến phần thưởng chắc chắn dành cho những ai đón tiếp các sứ giả nhỏ bé của Đức Giêsu. Tác giả Jerome, nhấn mạnh đến trang từ “chỉ”, cho rằng, “thậm chí một người nghèo, không có củi để đun nóng nước, có thể lãnh nhận phần thưởng được hứa.[12]
Bình luận tổng quát
Đoạn cuối của bài giảng về sứ vụ là những chọn lựa khó khăn của các sứ giả và những phần thưởng dành cho những ai đón nhận các sứ giả. Đó là chọn lựa giữa yêu những người thân ruột thịt của mình và yêu chính Chúa. Những người thân ruột thịt được liệt kê tượng trưng là “cha và mẹ”, “con trai và con gái”. Có ba điều làm cho các môn đệ không xứng đáng với Đức Giêsu: Yêu cha và mẹ hơn Đức Giêsu; Yêu con trai và con gái hơn Đức Giêsu; không đón nhận thập giá của mình và đi theo Đức Giêsu. Những giáo huấn về “tôn vinh”/ “hiếu kính” với cha mẹ của Cựu Ước bỗng bị thách đố trước chọn lựa yêu Chúa. Các môn đệ được mời gọi chọn lựa ưu tiên trong tình yêu. Đức Giêsu phải là đối tượng yêu thương trước tiên của các môn đệ. Và tình yêu đối với Đức Giêsu đương nhiên kích thích, dẫn đường, làm nền, cho mọi tình yêu trong nhân loại, đặc biệt là tình phụ – mẫu – tử – huynh đệ – tỷ muội (cha – mẹ – con cái – anh chị em). Khi các môn đệ chọn lựa yêu thương cha mẹ và người thân trước tiên, lỡ như cha mẹ và người thân không tin yêu Đức Giêsu, thì họ cũng khó có thể yêu Chúa được, và lẽ dĩ nhiên là họ không xứng đáng với Đức Giêsu. Yêu Đức Giêsu đồng nghĩa với việc đồng hành với Người trên con đường Người đi: Nhận lấy thập giá của mình và đi theo sau Người. Tình yêu không thập giá là tình yêu dỏm; Thập giá không tình yêu là thập giá điên rồ. Cốt lõi trong mầu nhiệm khổ giá vẫn là một tình yêu tự hiến, yêu cho đến chết. Những người tham sống, sợ chết, không muốn sống theo những đòi hỏi của Tin Mừng, cuối cùng rồi cũng phải chết, chết cách vô nghĩa và chết vĩnh viễn. Ngược lại, những người dám hiến mạng vì yêu, chết cách ý nghĩa, sẽ được sống lại và sống vĩnh hằng với Chúa.
Điệp khúc của động từ “tiếp đón” cho thấy tầm quan trọng của hành vi này đối với thính giả của Tin Mừng. Qua việc đón nhận các sứ giả của Đức Giêsu người ta có thể vươn đến không những chính Đức Giêsu mà còn vươn đến Cha của Người nữa. Sự đón tiếp các sứ giả của Đức Giêsu không đơn thuần chỉ là hành động hiếu khách hay phép lịch sự thường ngày, nhưng là đón nhận sứ điệp Tin Mừng và sẵn sàng hoán cải theo giáo huấn của Đức Giêsu. Chặng cuối cùng của sự đón tiếp theo nghĩa này là sẵn sàng đón nhận thập giá của mình và đi theo sau Đức Giêsu. Cuối cùng người đón tiếp, đón nhận các sứ giả của Đức Giêsu sẽ được nhận phần thưởng dành cho người công chính, dành cho vị ngôn sứ. Đó là được thừa hưởng Nước Trời, đi vào Nước Trời hay được hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Giêsu và các môn đệ.