“Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây,
để cho thế gian được sống”.
(Ga 6,51)
Bài Ðọc I: Ðnl 8, 2-3. 14b-16a
“Người sẽ ban cho các ngươi của ăn mà các ngươi và cha ông các ngươi chưa từng biết tới”.
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói cùng dân chúng rằng: “Các ngươi hãy nhớ tất cả đoạn đường mà Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã dẫn đưa các ngươi qua sa mạc suốt bốn mươi năm, để rèn luyện và thử thách các ngươi, để biết các điều bí ẩn trong lòng các ngươi và xem các ngươi có tuân giữ lề luật của Người hay không ? Người đã để các ngươi vất vả thiếu thốn, và ban cho các ngươi manna làm của ăn mà các ngươi và cha ông các ngươi chưa từng biết tới, để tỏ cho các ngươi thấy rằng: Con người sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
“Các ngươi hãy nhớ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, Ðấng đã dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Và Người là Ðấng đã dẫn các ngươi vào nơi hoang địa mênh mông và kinh khủng có nhiều rắn hổ lửa, bò cạp, rắn lục, và không có một giọt nước nào; Người đã khiến nước từ tảng đá cứng rắn vọt ra. Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới”.
Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20.
Ðáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các then cửa ngươi, Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. – Ðáp.
2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc sương đông như tro bụi trắng. – Ðáp.
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. – Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 10, 16-17
“Có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều, cũng chỉ là một thân thể”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa chẳng phải là thông hiệp với máu Chúa Kitô sao ? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao ? Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh.
TIN MỪNG: Ga 6, 51-58
51 Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
52 Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?” 53 Đức Giê-su nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. 54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55 vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. 56 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. 58 Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
VUN ĐẮP TÌNH CHÚA BAN
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy”. (Ga 6,56-57)
Suy niệm: Lời Chúa Giê-su nói trên đây khiến nhiều người nghe chói tai lại là lời an ủi và niềm hy vọng cho các tín hữu. Bởi mỗi lần cử hành Thánh lễ là một lần Chúa Giê-su ban chính Mình Ngài cho các tín hữu. Nhờ cử hành ấy, Hội Thánh được nối kết với cuộc Khổ Nạn hồng phúc của Chúa, được Chúa ở cùng mọi ngày cho tới ngày Chúa lại đến. Khi tham dự Thánh Lễ, Ki-tô hữu hiểu rằng lúc này Lời không còn là lời nói suông mà đã trở thành hiện thực. Đó chính là Mình Máu Chúa, nay được trao cho con người làm lương thực cho con người lữ hành trên đường dương thế. Đó chính là việc Chúa đến ở với con người, “cắm lều” trong tâm hồn con người để chia sẻ với họ mọi nỗi niềm của thân phận con người. Từ nay, kẻ ăn Mình Ngài hiểu rằng, trong họ không chỉ có sự sống tự nhiên mà còn có sự sống thần linh của Chúa nữa.
Mời Bạn: Mỗi lần tham dự Thánh lễ là một dịp bạn đụng chạm với mầu nhiệm Thiên Chúa trao ban Thân Mình Con Yêu Dấu của Ngài. Bạn có cùng với Hội Thánh xác tín tuyên xưng niềm tin ấy trong Thánh lễ và trong đời bạn không?
Chia sẻ: Điều gì sẽ xảy ra khi Chúa ở lại trong bạn?
Sống Lời Chúa: Tâm niệm nhiều lần câu sau đây: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, tai con không cảm thấy chói khi nghe lời Chúa, chân con không rời xa Chúa vì những lời khó hiểu, nhưng xin giúp con yêu Chúa, vì yêu Chúa mới thực ở trong Chúa.
B/ Mai Thi
THÁNH THỂ: MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU
Mạc khải Kinh Thánh và Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật. Người là Con Một và là quà tặng tình yêu của Đức Chúa Cha ban cho trần gian… Nhờ và qua mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, Người đã trở nên bánh hằng sống cho trần gian: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời… vì thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống”.
Bằng thịt và máu của mình, Chúa Giêsu trở nên của ăn thức uống thật, là bánh hằng sống, là lương thực thường tồn từ trời xuống, để cho thế gian được sống. Đó chẳng phải là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta hay sao?
Thiên Chúa đã gửi Con Ngài đến thế gian để nhờ đó con người được sống: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Người Con yêu dấu của Thiên Chúa lại dâng hiến chính thân mình, chính máu mình như Người đã dạy: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54). Đây là Bí tích của tình yêu, vì qua Bí tích này, Chúa Giêsu hiến mình nên của ăn của uống cho con người.
Vì yêu thương, Thiên Chúa ban tặng Chúa Kitô cho ta; nghĩa là ban tặng chính bản thân mình cho ta. Chúa Kitô là Bánh Sự Sống, Bánh bởi Trời mà Chúa Cha ban cho ta để ta có sự sống đời đời. Qua những nghĩa cử chia sẻ, hy sinh và trao hiến, Thiên Chúa đã trở nên lương thực cho con người đạt tới sự sống đời đời: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Đức Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa.
Bí tích Thánh Thể là bí tích ban ơn cứu độ quan trọng nhất mà Chúa Kitô đã trao cho Giáo Hội cử hành để tiếp tục công trình cứu độ nhân loại của Người cho đến ngày tận thế. Tuy nhiên nói về bí tích Thánh Thể là nói đến “mầu nhiệm đức tin”. Nhưng đức tin lại trở nên dễ hiểu, gần gũi và cụ thể vì nó là mầu nhiệm của tình yêu, của sự trao ban, của một Thiên Chúa yêu nhân loại cho đến cùng.
Tắt một lời, bí tích Thánh Thể là bí tích của tình yêu. Dấu chỉ tuyệt diệu nhất của tình yêu Thiên Chúa là sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta – nơi BÍ TÍCH THÁNH THỂ. Vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta nên đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu Kitô; Chúa Giêsu Kitô yêu chúng ta nên đã “chấp nhận thân phận tôi đòi” (Pl 2,7), đã chịu nạn, chịu chết và phục sinh vinh hiển để đem lại sự sống cho chúng ta, Người còn “Ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20). Nơi bí tích Thánh Thể; tất cả chỉ vì yêu chúng ta.
Bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm của tình yêu, là phương thế hữu hiệu nhất cho ta được hưởng nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô vì được kết hợp mật thiết với Người ngay từ trong cuộc sống ở đời này, trước khi được chiêm ngưỡng Chúa trên Nước Trời mai sau. Nếu chúng ta nói: thân xác con người cần phải ăn thì mới sống được, thì phần linh hồn cũng cần của ăn nuôi sống như vậy. Nói cách khác, cơm bánh nuôi sống thân xác mình còn của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta chính là Mình máu Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ta là bánh hằng sống. Các ngươi hãy cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các ngươi hãy lãnh nhận mà uống, vì này là máu Ta. Ai ăn mình và uống máu Ta sẽ được sống. Vì mình Ta thực là của ăn, máu Ta thật là của uống”.
Nếu trong hành trình đi qua sa mạc, dân Israel vốn là dân riêng của Chúa đã được nuôi bằng Manna hằng ngày thì chúng ta, dân mới của Giáo Hội được Chúa Giêsu thiết lập cũng sẽ được ban một thứ bánh khác, bánh này ăn vào sẽ không bao giờ đói nữa: “Ta là bánh hằng sống, ai đến cùng Ta không khi nào đói, ai tin kính Ta chẳng bao giờ khát “(Ga 6,35). Bánh Chúa Giêsu ban tặng là thứ bánh hằng sống, chân thật, đó là chính Thịt Máu Người: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con người thì các ngươi chẳng được sống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời, và Ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6,54-55).
Thánh Thể Chúa Kitô là một mầu nhiệm, không trí khôn nào có thể suy thấu, chỉ dùng con mắt đức tin mà chấp nhận và đón nhận. Với con mắt xác thịt, không ai có thể trông thấy Chúa trong hình bánh hình rượu với cả mình và máu, nhân tính và thần tính của Chúa Giêsu nhưng với con mắt đức tin, sau khi “truyền phép” bánh và rượu trở thành Mình Máu Chúa Kitô. Cả con người của Chúa Giêsu ở trong đó: thịt và máu, nhân tính và thần tính. Trong và qua bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện để ở cùng, nâng đỡ, gìn giữ, tha tội, chữa lành và nhất là trở thành của ăn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
Thật hạnh phúc cho người Kitô hữu chúng ta vì chúng ta được sống nhờ, sống bởi và sống với mầu nhiệm tình yêu mỗi ngày và từng ngày.
C/ Lm. Inhaxiô Hồ Thông
LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KI-TÔ
Vào ngày lễ Mình và Máu Thánh Đức Ki-tô, Phụng Vụ Lời Chúa cử hành sự kiện Thiên Chúa ban tặng bánh từ trời làm lương thực cho nhân loại.
Đnl 8: 2-3, 14-16
Sách Đệ Nhị Luật nhắc lại ân ban bánh Man-na kỳ diệu từ trời xuống mà Đức Chúa ban cho dân Do thái để nuôi dưỡng họ trong suốt cuộc hành trình qua sa mạc khô cằn nóng cháy và thiếu thốn.
1Cr 10: 16-17
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nêu lên bí tích Thánh Thể, bí tích hiệp nhất mọi Ki-tô hữu khi cho họ được dự phần vào chỉ một tấm bánh là Thân Thể Đức Giê-su.
Ga 6: 51-58
Tin Mừng Gioan trích từ diễn từ về “Bánh Hằng Sống” trong đó Đức Giê-su tuyên bố Ngài chính là “Bánh Hằng Sống”, bánh ban sự sống đời đời cho nhân loại.
BÀI ĐỌC I (Đnl 8: 2-3, 14-16).
Đệ Nhị Luật là sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư, được gọi chung là “Sách Luật” (Tô-ra). Tuy nhiên, thuật ngữ Tô-ra theo tiếng Do thái không có nghĩa pháp lý, nhưng là những giáo huấn giúp soi sáng, hướng dẫn cách ăn nếp ở của người tín hữu.
Nhan đề sách: “Đệ Nhị Luật”, có nghĩa “Luật thứ hai” hay “Thứ Luật” (tiếng Hy lạp: Deuteros: thứ hai, và nomos: luật). Tác phẩm này là “ôn cố tri tân”, nghĩa là nhắc lại những lời dạy của Mô-sê để dân biết phải sống như thế nào khi ở trong Đất Hứa. Thật ra, sách này được biên soạn vào thế kỷ thứ 8 hay thứ 7 tCn, khi dân Ít-ra-en đã an cư lạc nghiệp qua nhiều thế kỷ ở đất Ca-na-an và có chiều hướng quên Giao Ước cũng như những huấn lệnh tôn giáo và luân lý.
Sách Đệ Nhị Luật chủ yếu bao gồm những diễn từ, được gán cho ông Mô-sê, nhân vật được xem như đang ngỏ lời với dân Do thái trước ngưỡng cửa Đất Hứa, để cảnh giác họ về những mối nguy hiểm đang rình rập họ khi sống trong môi trường ngoại giáo tại đất Hứa, cũng như để khẩn khoản nài van họ trung thành với những giới luật của Thiên Chúa như điều kiện tiên quyết để sống dài lâu trong Đất Hứa.
Bản văn hôm nay được trích từ chương 8 của sách Đệ Nhị Luật gồm hai phần: 8: 2-3 và 8: 14-16. Phần trích dẫn thứ nhất nhấn mạnh nguồn gốc từ trời của bánh Man-na, trong khi phần trích dẫn thứ hai nhấn mạnh giá trị dấu chỉ của bánh Man-na, dấu chỉ của việc Thiên Chúa can thiệp cách đặc biệt, nhờ đó dân Ngài được sống trong những ngày tháng lang thang trong sa mạc. Cả hai phần trích dẫn đều bắt đầu với những nhắc nhở: “Anh em hãy nhớ lại” và “Anh em đừng quên” bánh Man-na là một thiên ân.
1.“Anh em hãy nhớ” (8: 2-3)
Phần trích dẫn thứ nhất mở ra với lời mời gọi dân Ít-ra-en “nhớ lại” những thử thách mà họ đã trải qua trong sa mạc: “Anh em hãy nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi trong sa mạc suốt bốn mươi năm qua”, vì thời gian thử thách là cách thức Thiên Chúa giáo huấn dân Ngài khỏi mọi ảnh hưởng xa lạ. Chính khi sống trong khung cảnh nghèo khó, kham khổ và gian nan vất vả mà con cái Ít-ra-en thấy mình hoàn toàn phụ thuộc vào Thiên Chúa. Bánh Man-na đã là một ân ban đặc biệt, lương thực từ trời, để cho con người hiểu rằng “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi điều từ miệng Chúa phán ra”. Có một sự đồng hóa và hầu như đồng nhất giữa bánh Man-na và Lời Thiên Chúa, vì Lời Chúa cũng là lương thực ban sự sống cho con người. Đó cũng là câu trả lời của Đức Giê-su cho Xa-tan khi Ngài chịu những chước cám dỗ trong hoang địa (Mt 4: 4).
2. “Anh em đừng quên” (8: 14-16)
Phần trích dẫn thứ hai kêu gọi “đừng quên” những ân phúc Thiên Chúa ban cho dân Ngài trong sa mạc khi phải đối mặt với biết bao nguy hiểm. Lời ghi nhận nầy cũng gợi nhớ ơn Quan Phòng lạ lùng, tức là bánh Man-na.
3.Bánh Man-na:
Bánh Man-na có thể từ một thứ nhựa cây rỉ ra và đông cứng lại. Loại cây sa mạc thuộc gia đình liễu bách này, khi bị côn trùng chích vào, liền tiết ra một thứ nhựa và đông cứng lại trong khí lạnh ban đêm và khi mặt trời mọc lên những hạt nhựa này rơi xuống đất như những hạt nhỏ có vị mật ong. Đây là lương thực mới lạ mà dân Do thái bất ngờ gặp thấy cho đến lúc đó, vì thế tên gọi Man-na có nghĩa “Cái gì đây?” (Xh 16: 15). Từ đó, bánh Man-na là lương thực hằng ngày của họ cho đến cuối cuộc hành trình băng qua sa mạc. Thánh vịnh 78 gợi lên bánh Man-na là “ bánh của những kẻ mạnh” mà bản Bảy Mươi dịch “bánh của các thiên thần”. Văn chương kinh sư loan báo rằng bánh Man-na sẽ là thức ăn của thời thiên sai. Đức Giê-su trình bày bánh Man-na là hình ảnh báo trước bánh ban sự sống đích thật, tức là Bánh Thánh Thể.
BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 16-17)
Cùng chung một bàn ăn, cùng chia sẻ một tấm bánh, tạo nên “tình liên đới” giữa những người đồng bàn. Nghi thức Thánh Thể là một nghi thức “đồng hội đồng thuyền”, “đồng sinh đồng tử”, “sống chết có nhau”. “Bánh Thánh Thể” không là bất cứ bánh nào mà người ta chia sẻ với nhau; “rượu Thánh Thể” cũng không là bất cứ rượu nào mà người ta chuyền tay cho nhau. Bánh mà người ta ăn, chính là “Thân Thể Đức Ki-tô”, rượu mà người ta uống chính là “Máu Đức Ki-tô”, nghĩa là thiết lập mối liên hệ vừa vật chất vừa mầu nhiệm giữa các tín hữu với nhau và với Đức Ki-tô. Thánh Thể là bí tích của sự hiệp nhất tuyệt vời. Đồng bàn với Đức Kitô, Chúa chúng ta, mọi người đều được dự phần vào cùng một thực tại siêu nhiên: nên một với Đức Ki-tô. Đức Ki-tô làm cho cộng đoàn Ki-tô hữu trở nên một thực thể duy nhất.
Đây là đạo lý căn bản của thánh Phao-lô. Trong cùng thư gởi tín hữu Cô-rin-tô này, thánh nhân khai triển chủ đề “liên đới” của mọi chi thể thành một thân thể với Đầu, Thủ Lãnh, là Đức Ki-tô, Ngài vừa nguyên lý của sự sống vừa là nguyên lý của sự hiệp nhất: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1Cr 12: 27).
Thánh Phao-lô lại càng có lý do nhấn mạnh sự liên đới này hơn nữa vì các tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ nhau. Thánh nhân muốn cho họ hiểu rằng họ không chỉ liên đới với nhau thành một cộng đồng duy nhất, nhưng còn với các cộng đoàn khác thành một Giáo Hội duy nhất bất khả phân chia.
TIN MỪNG (Ga 6: 51-58)
Ngày hôm sau Đức Giê-su trở lại Ca-phác-na-um, ở đó Ngài gặp lại đám đông mà Ngài đã cho họ ăn no nê qua dấu lạ “hóa bánh ra nhiều”. Trên bờ hồ, Đức Giê-su bắt đầu ngỏ lời với họ (Ga 6: 26); sau đó, trong hội đường Ca-phác-na-um (Ga 6: 59), Ngài hoàn tất bài diễn từ của Ngài, được gọi là diễn từ về “Bánh Hằng Sống”.
Bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống” (6: 26-58) được chia làm hai phần. Phần thứ nhất (6: 26-51b) được gọi là “diễn từ về Lời Chúa”, trong đó Đức Giê-su tự giới thiệu Ngài là “Lời từ trời xuống ban sự sống đời đời”. Phần thứ hai (6: 51c-58) được gọi là “diễn từ về Thánh Thể”, trong đó Ngài tự giới thiệu Mình và Máu Ngài là “của ăn đích thật ban sự sống đời đời”. Toàn bộ câu 51 đóng chức năng nối kết hai phần của một diễn từ: lời công bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống muôn đời” kết thúc diễn từ: “Bánh Hằng Sống là Lời Ngài”; lời công bố thứ hai: “Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” mở ra diễn từ: “Bánh Hằng Sống là Mình Ngài”.
Đoạn trích dẫn hôm nay là phần thứ hai của diễn từ “Bánh Hằng Sống là Mình Ngài”. Trong phần thứ nhất, Đức Giê-su đòi hỏi phải tin vào Ngài như điều kiện tiên quyết, bởi vì Mặc Khải mà Ngài sắp ban lạ lùng đến nỗi nó đòi hỏi, trước hết, “phải tin vào Đấng Chúa Cha đã sai đến” và “tín thác vào Lời Ngài”. Tiếp đó, Đức Giê-su không úp mở khai triển phần thứ hai, phần trọng điểm lời công bố của Ngài. Đây là đoạn Tin Mừng được trích dẫn vào ngày lễ “Mình và Máu Chúa Ki-tô”.
1.Bánh Hằng Sống Đức Giê-su ban chính là Mình và Máu của Ngài:
Trong suốt những lời tuyên bố gây kinh ngạc của Ngài: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”, Đức Giê-su không ngừng gợi lên nguồn gốc thiên giới của Ngài và tử hệ thần linh của Ngài. Chính vì Ngài đến từ Chúa Cha và nên một với Chúa Cha, mà Ngài có thể tự mình ban phát sự sống thần linh cho nhân loại: “Bánh tôi sẽ cho, chính là thịt tôi ban, để thế gian được sống”.
Những lời nầy rất gần với những lời mà Đức Giê-su sẽ công bố khi thiết lập Bí Tích Thánh Thể: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (Mt 26: 26; Mc 14: 22; Lc 22: 14; 1Cr 11: 24). Chúng ta lưu ý rằng thánh Gioan không dùng từ “sôma” (thân xác) như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng từ “sarx” (nhục thể, nhân tính), bởi vì từ “sôma” rất dễ hiểu lầm, quả thật, ý nghĩa đầu tiên của từ “sôma” là xác chết, thây ma (x. Lc 17: 37). Với từ “sarx” này, thánh Gioan nối kết Bí Tích Thánh Thể với Mầu Nhiệm Nhập Thể (Ga 1: 14). Ngôi lời nhập thể để trở nên bánh ban sự sống. Mầu nhiệm Nhập Thể là căn nguyên của ơn cứu độ.
2.Khó mà tin được:
“Người Do thái liền tranh luận sôi nổi với nhau”. Danh xưng “người Do thái” chung chung mang nét nghĩa tiêu cực trong Tin Mừng thứ tư. Danh xưng nầy được dùng để chỉ những người Do thái cứng lòng tin; trái lại, danh xưng “Ít-ra-en” được dành riêng cho những người gắn bó mật thiết với Đức Giê-su.
Quả thật, người Do thái càng tỏ thái độ nghi nan ngờ vực: “Ông nầy có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được”, Đức Giê-su càng nhấn mạnh hơn nữa. Lời công bố của Ngài càng trở nên thách thức hơn nữa, vì Ngài không chỉ kể ra thịt của Ngài mà còn cả máu của Ngài nữa: “Quả thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, thì các ông không có sự sống nơi mình…”
Đối với những người Do thái nghi nan ngờ vực, lời công bố này không thể nào tin được, nhưng còn quá kỳ chướng. Như chúng ta biết, dân Do thái bị nghiêm cấm triệt để không được ăn máu bởi vì máu là trung tâm sự sống được dành riêng cho Thiên Chúa. Vì thế, trong mỗi hy tế, máu phải được dâng hiến trọn vẹn lên Thiên Chúa.
Theo cách thức nầy, Đức Giê-su loan báo tính cách hy tế của Thánh Thể, cũng như mối hiệp nhất khả phân giữa ân ban thịt và máu của Ngài với cuộc Tử Nạn của Ngài.
3.Thịt và máu “Con Người”:
Nhưng ở bên kia cuộc Tử Nạn của Ngài, Đức Giê-su gợi lên cuộc siêu tôn của Ngài khi quy chiếu đến danh xưng “Con Người”: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời” (6: 53). “Thịt và máu Con Người” thuộc trật tự khác với trật tự trần thế: Đức Giê-su sẽ ban cho nhân loại “thịt và máu” của Ngài làm lương thực, chính là “Thân Thể vinh hiển” của Ngài. Sau diễn từ này, Ngài cũng sẽ quy chiếu theo cùng một cách như vậy khi ngỏ lời với các môn đệ đang xầm xì về vấn đề nầy: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62).
Như vậy, khi loan báo ân ban Thánh Thể một cách hiện thực và khá mạnh bạo, Đức Giê-su thử làm cho hiểu rằng ân ban nầy sẽ được trình bày một cách mầu nhiệm, hoàn toàn đặc biệt (được ẩn dấu dưới kiểu nói: “bánh hằng sống từ trời xuống”).
4.Lời hứa ban sự sống:
Về thành quả của Bí Tích Thánh Thể, điểm nhấn được đặt trên sự sống: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy được sống lại… Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống muôn đời”. Qua lời này, Đức Giê-su khẳng định cách rõ ràng sự sống siêu nhiên và ý nghĩa cánh chung của nghi thức Thánh Thể.
5.Hiệp thông mật thiết và nội tại:
Lời công bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy”, gợi lên sự hiệp thông mật thiết đến độ không gì có thể sánh ví được. Động từ “ở lại” là một động từ tâm đắc của thánh Gioan, qua đó thánh ký diễn tả tính thường hằng của sự sống siêu nhiên luân chuyển trong mỗi Ki-tô hữu, một cách nào đó, tính nội tại của Vương Quốc.
6.Lễ Vượt Qua sắp đến.
Dấu lạ “hóa bánh ra nhiều” và diễn từ “Bánh Hằng Sống” được thánh Gioan xác định ngay từ đầu: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái” (Ga 6: 4). Đó là lý do tại sao có đông đảo người ở Ca-phác-na-um. Từ khắp nơi, người ta quy tụ với nhau ở đây để theo từng nhóm hành hương lên Giê-ru-sa-lem. Như vậy, chính trong bối cảnh lễ Vượt Qua mà Đức Giê-su ban cho đám đông Mặc Khải gây xôn xao của Ngài. Trong Tin Mừng thứ tư, lễ Vượt Qua sắp đến nầy là lễ Vượt Qua áp chót của Đức Giê-su. Vào lễ Vượt Qua năm tới, Ngài sẽ thực hiện lời hứa của Ngài khi thiết lập lễ Vượt Qua đích thật của Ngài, lễ Vượt Qua của Ki-tô giáo.
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
BÁNH HẰNG SỐNG BỞI TRỜI
I. DẪN NHẬP
Mặc dầu ngày thứ năm tuần thánh, Giáo hội đã kỷ niệm việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể, để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta, hôm nay Giáo hội tiếp tục cử hành lễ kính Mình Máu thánh Chúa Kitô, để giáo dân có nhiều thì giờ suy niệm về phép Thánh Thể, thúc giục giáo dân thêm lòng yêu mến tôn sùng. Qua Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được hiểu biết tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể này, đồng thời thúc giục chúng ta năng rước lễ, để lãnh nhận Chúa Giêsu làm lương thực nuôi linh hồn chúng ta trên bước đường đi về Quê trời.
Qua các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta thấy Thánh Thể thực sự đã được loan báo từ trước bằng những hình ảnh. Manna mà Thiên Chúa ban cho dân Israel dùng trong sa mạc suốt bốn mươi năm chẳng phải là hình bóng phép Thánh Thể mà Đức Giêsu đã lập sao? Thánh Phaolô cũng nhắc lại cho tín hữu Côrintô tư tưởng trên: dân Israel đã được ăn Manna, uống nước từ tảng đá… để nói lên rằng: toàn dân Israel đã được thừa hưởng bao hồng ân của Thiên Chúa.
Lời Chúa trong đoạn Tin mừng thánh Gioan là những lời Đức Giêsu diễn giảng về Bánh hằng sống, Bánh từ trời, Bánh ban sự sống thần linh. Bánh đó chính là Đức Giêsu Kitô. Thịt máu Ngài đã trở nên cơm bánh, trở thành lương thực, trở thành của ăn của uống giúp con người đi vào thế giới của Thiên Chúa kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Bánh này trổi vượt hơn Manna trong sa mạc mà tổ tiên dân Israel đều đã được ăn. Vì thế ai ăn bánh này sẽ được sống vĩnh cửu trong Vương quốc của Thiên Chúa.
Trung tâm đời sống Kitô hữu là Thánh Thể, mà Thánh Thể là một nhiệm tích tuyệt diệu làm cho Đức Kitô hiện diện thực sự với dân chúng trong mầu nhiệm Vượt qua. Trong bữa ăn sau hết, chính Ngài bị nộp, Ngài đã thiết lập hiến tế tạ ơn bằng Mình và Máu Ngài. Hiến tế của Tình yêu. Hiến tế của hiệp nhất, giây liên kết đức bác ái, bữa tiệc Vượt qua trong Đức Giêsu là của ăn. Xét theo phương diện này, hôm nay ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm nhiệm tích Thánh Thể là lương thực nuôi linh hồn vì Đức Giêsu đã nói với chúng ta: “Ta là bánh hằng sống từ trời ban xuống” (Ga 6,51).
II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Đnl 8,2-3.14-16
Thiên Chúa đã cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ của Ai cập, dẫn dắt họ suốt 40 năm trường trong sa mạc để vào Đất hứa. Kết thúc cuộc hành trình, trước khi tiến vào Đất hứa, ông Maisen khuyên bảo dân đừng bao giờ quên những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho. Trong số những ơn lành Chúa đã ban, dân Chúa hãy nhớ lại việc Thiên Chúa đã nuôi sống họ, bằng cách ban Manna từ trời xuống và cũng làm cho nước từ tảng đá vọt ra để thỏa mãn cơn khát khao.
Nhưng đấy mới chỉ là thức ăn vật chất nuôi phần xác thôi, còn cần phải có một thức ăn thiêng liêng khác là Lời Chúa và Thánh Thể nuôi sống linh hồn loài người nữa.
+ Bài đọc 2: 1Cr 1o,16-17
Nhận thấy trong cộng đoàn tín hữu ở Côrintô có sự bất hòa, chia rẽ, thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy đoàn kết lại, hiệp nhất trong tình yêu thương. Ngài cho biết: Thánh Thể chính là mối dây tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Khi chúng ta hiệp thông với Mình và Máu Chúa Kitô, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén thì chúng ta cũng phải thể hiện sự hiệp thông ấy ra trong đời sống cộng đoàn bằng cách phải hiệp nhất với nhau. Cũng như chỉ có một tấm bánh, chúng ta tuy nhiều người cũng chỉ là một thân thể.
+ Bài Tin mừng: Ga 6,51-58
Dân chúng say mê nghe Chúa giảng, không nghĩ đến ăn uống. Thấy họ đói, Chúa Giêsu đã nuôi sống họ bằng cách làm cho bánh hoá nhiều. Dân chúng được ăn no nê thừa thãi thứ bánh vật chất, mà Ngài vừa làm phép lạ cho có nhiều. Bây giờ Chúa muốn đưa họ đến một thứ lương thực cao quý hơn. Vì thế, Ngài loan báo cho họ một thứ bánh khác. Bánh đó chính là Mình Máu Ngài, Bánh hằng sống mang lại ơn cứu độ cho thế gian.
Chúa Giêsu đã khẳng định mặc dầu người ta không hiểu cũng như không muốn hiểu: “Ta là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, và bánh Ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống… Ai ăn thịt và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết”.
III. THỰC HÀNH LỜI CHÚA:
THÁNH THỂ, NGUỒN SỐNG THIÊNG LIÊNG
Trong lời mở đầu của thông điệp về Bí tích Thánh Thể “ECCLESIA DE EUCHARISTIA”, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã xác tín “Giáo hội múc nguồn sự sống từ Bí tích Thánh Thể. Sự thật này không đơn thuần diễn tả một kinh nghiệm thường nhật của đức tin, nhưng tóm kết cốt lõi của mầu nhiệm Giáo hội. Trong niềm hân hoan, Giáo hội kinh nghiệm, dưới nhiều hình thức, sự thực hiện liên lỉ lời hứa “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Kể từ ngày Lễ Ngũ tuần, Giáo hội bắt đầu cuộc hành trình đi về Quê trời, bí tích thần thiêng tiếp tục ấn dấu trên ngày sống, bằng cách tuôn đổ trên họ niềm hy vọng tin tưởng”.
Công đồng Vatican II tuyên bố cách xác đáng rằng: “Mọi Bí tích đều liên hệ và hướng về Thánh Thể. Vì phép Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, nghĩa là chính mình Chúa Kitô Phục sinh. Phép Thánh Thể là nguồn suối, là chóp đỉnh việc rao giảng Tin mừng” (P.O, số 5).
Thánh Thể đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống Giáo hội và giáo dân, nên Giáo hội lập ra lễ kính Thánh Thể để thúc giục giáo dân gia tăng lòng tôn sùng phép Thánh Thể. Lễ kính này đã manh nha ở thành phố Liège bên Bỉ với những ơn lạ của chị dòng Juliana về phép Thánh Thể từ năm 1208 cho mãi đến năm 1263 với phép lạ máu Chúa chảy loang thấm ướt khăn thánh ở làng Polsena bên Đức. Ngày 8/9/1264, Đức Thánh Cha Urbanô ban sắc lệnh Transiturus lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa Kitô trên khắp hoàn cầu.
I . THÁNH THỂ, NGUỒN SỐNG CỦA KITÔ HỮU
Con người có hồn có xác. Cả hai liên kết chặt chẽ với nhau. Muốn sống cần phải có ăn, không ăn thì chết. Nhưng hồn và xác lại có những của ăn khác nhau. Xác cần có của ăn vật chất, hồn lại có của ăn thiêng liêng là chính Mình Máu thánh Chúa Kitô như lời Ngài đã dạy.
- Của ăn thể xác
Người ta thường nói: “Có thực mới vực được đạo” (Tục ngữ). Nói như thế có nghĩa là phải có của ăn phần xác nuôi sống đã, phải sống đã rồi mới có thể thực hiện việc đạo nghĩa được. Nhiều người nói quả quyết hơn: “Dĩ thực vi tiên”: phải lấy cái ăn làm đầu. Câu tục ngữ trên cũng có nghĩa tương đương với câu ngạn ngữ La tinh: “Manducare priusquam philosophare”: ăn đã rồi hãy nói triết lý, vì không có ăn thì lấy hơi đâu mà nói triết lý?
Bất kỳ ai cũng phải ăn, không ăn nhiều thì ăn ít. Càng ăn nhiều thức ăn có độ dinh dưỡng cao thì người càng mập, béo, khoẻ mạnh. Ăn uống thiếu chất dinh dưỡng thì người sẽ gầy còm, ốm o.
Trung bình mỗi người lớn một ngày phải được cung cấp 2.600 calories, nhưng trong thực tế, trừ một số nước tiên tiến mỗi ngày được cung cấp tới 3,130 calories, khiến con người họ to cao, béo mập; còn đa số dân chúng ở các nước kém mở mang chỉ được cung cấp dưới mức trung bình ấy. Một số nước mỗi người chỉ được cung cấp 1.700 calories mỗi ngày, và tệ hơn nữa, một số nước ở Phi châu chỉ được cung cấp 1.200 calories mỗi ngày. Theo tin tức của đài truyền hình cho biết: tính từ năm 1975 đến nay, chiều cao của trẻ em Việt Nam đã tăng thêm được vài centimét.
Trong kinh “Lạy Cha” chúng ta vẫn cầu xin Chúa cho chúng ta có của ăn hằng ngày: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Lương thực đây phải hiểu là lương thực của phần xác và phần hồn. Nhưng dù sao chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta có của ăn của để, đừng để chúng ta thiếu thốn quá mà bỏ bê việc đạo.
Người Việt Nam chúng ta rất thực tế, không ước ao được giàu sang phú quý đến mức dư dật, vì như thế có thể làm cho người ta dễ hư hỏng hoặc làm cho người ta thêm lo lắng đêm ngày:
Ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy,
Ăn cơm với cáy thì ngáy o o.
Trong thực tế của đời sống hằng ngày, họ chỉ cần hai chữ “bình an”, họ chỉ ao ước được hưởng những hạnh phúc thông thường, như thế họ đã mãn nguyện:
Ăn được ngủ được là tiên,
Không ăn không ngủ mất tiền thêm lo
(Ca dao)
- Của ăn phần hồn
Nếu chúng ta nói: thân xác phải ăn thì mới sống được, chúng ta phải nói thế nào về phần hồn? Dĩ nhiên, linh hồn cũng phải ăn thì mới sống được, nhưng của ăn nuôi sống linh hồn không phải là của ăn vật chất như cơm bánh hằng ngày ta ăn, mà là của ăn thiêng liêng. Nói khác đi, của ăn đó chính là Mình máu Chúa Kitô.
Trong sa mạc, dân Israel đã được ăn Manna hằng ngày để nuôi thể xác. Chúa Giêsu cũng làm phép lạ cho bánh hoá nhiều, để nuôi phần xác cho dân chúng khi đói. Ngoài bánh ấy ra, Chúa Giêsu còn hứa sẽ ban cho họ thứ bánh khác, không phải là thứ bánh họ đã ăn, bánh này ăn vào sẽ không bao giờ đói nữa: “Ta là bánh hằng sống, ai đến cùng Ta không khi nào đói, ai tin kính Ta chẳng bao giờ khát “(Ga 6,35). Ngài hứa ban bánh hằng sống, dân chúng ước ao ăn bánh này cho khỏi đói khát nữa. Nhưng Chúa Giêsu còn muốn đưa họ lên cao hơn, Ngài muốn nói về một thứ bánh hằng sống chân thật, đó là chính Thịt Máu Ngài.
Mặc dầu Ngài nói như thế, người ta sẽ không tin, còn làm cớ vấp phạm cho nhiều người, đến nỗi có nhiều người bỏ đi vì thấy nó chói tai quá, kể cả môn đệ cũng có một số bỏ đi. Tuy thế, Ngài cứ nói, nói một cách thẳng thừng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con người thì các ngươi chẳng được sống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời, và Ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6,54-55).
Để bảo tồn sự sống, mọi sinh vật phải có thức ăn thích hợp với bản tính riêng. Linh hồn chúng ta đã được thuần hoá, nên cũng cần có một thức ăn thích hợp với nếp sống mới đó. Thức ăn này phải là do việc thông hiệp vào thịt máu Chúa Giêsu ban cho: “Ta là bánh hằng sống. Các ngươi hãy cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các ngươi hãy lãnh nhận mà uống, vì này là máu Ta. Ai ăn mình và uống máu Ta sẽ được sống. Vì mình Ta thực là của ăn, máu Ta thật là của uống”.
Ai lãnh nhận mình máu Chúa Kitô, người ấy được kết hợp với Chúa, được tan biến trong Chúa để cả hai nên một, để người ấy có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Trong khi rước lễ, chúng ta coi mình như đón nhận Chúa Giêsu, Chúa Giêsu ngự vào lòng tôi. Chúng ta nói về sự hiệp lễ như là ôm ẵm Chúa. Nhưng hiệp lễ cũng có nghĩa là Chúa ôm ẵm chúng ta. Chúa Giêsu đón nhận chúng ta vào lòng Ngài cách đặc biệt. Không chỉ là Chúa Giêsu ngự trong chúng ta, mà chúng ta cũng ở trong Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa của điều Chúa nói với chúng ta trong Tin mừng hôm nay: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy”. Chúng ta có thể nói như thánh Inhaxiô: “Đây là nơi Chúa Giêsu bồng ẵm tôi”.
Thánh Cyrillô thành Alexandria so sánh sự hiệp nhất này với hai miếng sáp ong hòa lẫn với nhau. Thánh Têrêsa thành Lisieux đã diễn tả sự hiệp lễ lần đầu của ngài như là sự tan hoà với Chúa Kitô.
Chúng ta hãy suy nghĩ điều này và bắt đầu nhận thức rằng sự quan trọng không phải là tình yêu, lòng khao khát hay những lời cầu nguyện của chúng ta, mặc dầu tất cả cần phải có. Sự quan trọng nhất là tình yêu vô biên của Chúa Giêsu. Ngài ước mong ôm ẵm chúng ta, chia sẻ chính đời sống Ngài cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta ở lại trong Ngài như chúng ta muốn Ngài ở lại trong chúng ta (GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng CN năm A, tr 79).
Mỗi khi rước Chúa ngự vào lòng, chúng ta muốn được hòa tan trong Chúa, muốn được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, muốn được đổi mới con người của mình. Dĩ nhiên, sự đổi mới này chỉ có tính cách thiêng liêng, nghĩa là linh hồn chúng ta được đầy tràn ơn Chúa, được trở nên thánh thiện hơn, làm chiếu toả Chúa ra bằng cách sống hằng ngày, còn thân xác chúng ta thì không có gì thay đổi.
Truyện: Biến đổi trong Chúa
Một người ngoại giáo hỏi người bạn Công giáo:
– Người Công giáo các bạn ăn Chúa Kitô phải không?
– Vâng, người Công giáo trả lời.
Người kia hỏi tiếp:
– Vậy sao các bạn không trở nên như Chúa?
Một lát sau, khi đi ngang qua trại heo, người Công giáo hỏi:
– Bạn có khi nào ăn thịt heo không?
– Rất nhiều lần. Mà hỏi làm gì vậy?
– Sao bạn chưa biến đổi thành heo?
Đó là câu trả lời cứng cỏi, nhưng kiến hiệu cho câu hỏi cứng cỏi. Trong thực tế, chúng ta được biến đổi trong Chúa cách thiêng liêng nhờ sự rước lễ. (GM Arthur Tonne, Góp nhặt, tr 8-9)
II. THÁNH THỂ LÀ MỘT MẦU NHIỆM.
Trong Thánh lễ, ngay sau truyền phép Mình thánh, Linh mục đã nhắc nhở cho giáo dân: “Đây là mầu nhiệm đức tin”. Hội thánh muốn nhắc nhở cho giáo dân: Thánh Thể là một mầu nhiệm, không trí khôn nào có thể suy thấu, chỉ dùng con mắt đức tin mà chấp nhận. Với con mắt xác thịt, không ai có thể trông thấy Chúa trong hình bánh hình rượu với cả mình và máu, nhân tính và thần tính của Chúa Giêsu, nhưng không thấy không có nghĩa là không có. Như kinh nghiệm cho chúng ta thấy: ban ngày người mù đâu có thấy ánh sáng, nhưng không thấy ánh sáng thì không thể phủ nhận được sự hiện hữu của mặt trời. Mặt trời vẫn có đó.
Sau khi truyền phép Mình thánh, bánh và rượu đã trở nên mình máu Chúa Kitô. Cả con người của Chúa Giêsu ở trong đó: thịt và máu, nhân tính và thần tính. Chúa Giêsu đang hiện diện trong hình bánh hình rượu.
Chúng ta phải phân biệt hai sự hiện diện:
– Hiện diện tượng trưng (Presentia symbolica)
– Hiện diện thực sự (Presentia realis).
- Hiện diện tượng trưng
Là tin rằng Chúa Giêsu hiện diện trong hình bánh, coi như Ngài hiện diện trong đó, nhưng thực sự không có thịt máu Ngài trong đó. Như thế là chối bỏ sự biến thể (transubstantiation) mà Giáo hội dạy: sau truyền phép thì bánh rượu chỉ còn hình dáng bề ngoài (species), còn bản thể (substantia) đã trở nên mình máu Chúa Kitô rồi. Đối với sự hiện diện tượng trưng này, mọi người dễ hiểu, dễ chấp nhận vì nó phù hợp với sự hiểu biết của lý trí con người, không cần dùng đến con mắt đức tin.
- Hiện diện thực sự
Đây là vấn đề gai góc. Hiện diện thực sự là có sự hiện diện thực của Chúa Giêsu với mình và máu, với nhân tính và thần tính của Người. Cả con người của Ngài hiện diện trong đó mặc dầu con mắt xác thịt chúng ta không thấy. Đây thực sự là mầu nhiệm đức tin.
Theo cuộc thăm dò ý kiến của Gallup tường trình cho biết, chỉ có 1/3 giáo dân Công giáo Hoa Kỳ tin có sự hiện diện thật của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể, số khác chỉ tin Bí tích Thánh Thể là biểu tượng cho sự hiện diện thật của Chúa Kitô.
Phản ứng trước cuộc thăm dò này, các Giám mục Hoa Kỳ đã nhắc lại một thông tư trong hội nghị hội đồng Giám mục Hoa Kỳ vào tháng 6/2001 “Sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể: Những câu hỏi và trả lời căn bản”. Trong bản văn này xác định lại một lần nữa trong Bí tích Thánh Thể “toàn thể con người Đức Kitô thật sự hiện hữu dưới hình thức bánh và rượu, thân xác, máu, linh hồn và thần linh”.
Truyện: Hiện diện thực sự.
Một linh mục và một mục sư Tin Lành ở cùng một tỉnh thường nói chuyện với nhau nhiều về đạo. Thời gian trôi qua, mục sư bắt đầu tin những chân lý của đạo Công giáo dần dần. Ông tin hết mọi chân lý, trừ có một – chân lý Chúa ngự thật trong phép Thánh Thể. Chân lý duy nhất này ông không thể nào tin được. Ông vẫn nói: “Nếu tôi có thể tin được rằng tôi rước lấy Chúa thực sự khi chịu lễ, thì chắc là tôi sẽ hạnh phúc nhất trên đời; nhưng xem chừng tôi không thể tin được”.
Ít lâu sau, vị mục sư đau nặng, Linh mục đến thăm ông, nhưng ông mê man bất tỉnh. Quỳ gối bên giường, linh mục cầu xin Chúa ban cho mục sư tỉnh lại và lời cầu nguyện của ngài đã được Chúa nghe. Vị mục sư hấp hối đó mỉm cười và xin được phép ngồi lên, tựa lưng vào gối. Ông có thể tiếp tục nói, nhưng mắt ông nhìn chòng chọc vào cái gì ở chân giường. Ông chỉ tay, nhưng vị linh mục không trông thấy gì cả. Rồi người hấp hối cứ nhìn chòng chọc và bỗng nhiên mặt ông tươi lên như hoa. Ông vừa thở hổn hển vừa phều phào: “Hiện diện thực sự – Nếu tôi được biết kịp thời thì chắc tôi đã giảng cho toàn thế giới chân lý này”. Nói rồi, ông nhắm mắt thở hơi cuối cùng (W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 161-162).
Chúng ta may mắn vì được Chúa ban đức tin ngay từ khi mới sinh. Những người khác thường phải chiến đấu lâu ngày lâu tháng mới tin được những điều chúng ta không phải khó lòng gì mà đã tin.
Bí tích Thánh Thể là bí tích của tình yêu. Dấu chỉ tuyệt diệu nhất của tình yêu Thiên Chúa là sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta – nơi BÍ TÍCH THÁNH THỂ. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để những ai tin vào Người thì không bị hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).
Thiên Chúa yêu chúng ta nên đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu Kitô; Chúa Giêsu Kitô yêu chúng ta nên đã “chấp nhận thân phận tôi đòi” (Phl 2,7), đã chịu nạn, chịu chết và phục sinh vinh hiển để đem lại sự sống cho chúng ta, Ngài còn “Ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20) nơi Bí tích Thánh Thể; tất cả chỉ vì yêu chúng ta.