Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi

“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,
để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
(Ga 3,16)

BÀI ĐỌC I: Xh 34, 4b-6. 8-9
“Thiên Chúa là Đấng thống trị, từ bi và nhân hậu”.

Trích sách Xuất Hành.

Ngày ấy, từ sáng sớm, Môsê chỗi dậy và lên núi Sinai, như Chúa đã truyền dạy cho ông, ông mang theo hai bia đá. Khi Thiên Chúa ngự trên đám mây, Môsê đứng trước mặt Chúa và kêu cầu danh Chúa.

Chúa đi qua trước mặt ông và hô: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa thương xót và từ nhân, bao dung, đầy nhân nghĩa và tín thành”. Môsê vội vã sấp mình xuống đất thờ lạy và thưa rằng: “Lạy Chúa, nếu con có ơn nghĩa trước nhan thánh Chúa, thì xin Chúa hãy đi cùng với chúng con, (vì dân này là dân cứng đầu), xin xoá mọi gian ác và tội lỗi chúng con, xin nhận chúng con làm cơ nghiệp của Chúa”.

ĐÁP CA: Đn 3, 52. 53. 54. 55. 56
Đáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).

1. Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. .

2. Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. .

3. Chúc tụng Chúa ngự trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. .

4. Chúc tụng Chúa, Đấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. .

5. Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.

BÀI ĐỌC II: 2 Cr 13, 11-13
“Ân sủng của Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.

Anh em thân mến, anh em hãy vui lên, hãy nên trọn lành, hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, và hoà thuận với nhau, thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an và tình yêu, sẽ ở với anh em. Anh em hãy chào nhau bằng cái hôn thánh thiện. Tất cả các thánh ở đây gởi lời chào anh em. Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh em. Amen.

TIN MỪNG: Ga 3, 16-18
16Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.

SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa

HIỆP NHẤT TRONG TÌNH YÊU

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16)

Suy niệm: Vì Thiên Chúa quá yêu thế gian, nên thay vì bỏ mặc con người trong tội phản nghịch chống lại Ngài, Chúa đã ‘tỏ lộ thân phận’ mình khi cho Con Một Ngài xuống thế làm người, chịu chết, để cứu độ nhân loại, cứu độ thế gian. Người Con đó là Đức Giê-su lại ‘tiết lộ’ về Cha của mình là chính Thiên Chúa mà Ngài với Cha Ngài “là một”. Và ai tin vào Ngài thì “được sống muôn đời” và được nên một “như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta…; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là Cha đã sai con” (Ga 17,21-23).
Chỉ đến giờ phút cuối cùng trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su mới ‘tiết lộ bí mật’ về Ngôi Ba, “Đấng mà Thầy sẽ sai đến từ nơi Chúa Cha”, là Đấng tác hợp việc “nên một” này giữa Thiên Chúa và chúng ta.

Mời Bạn: Tình yêu hiệp nhất trong Ba Ngôi Thiên Chúa thôi thúc chúng ta sống hiệp thông để yêu thương ngay ở trần thế này. Còn tình yêu nào cao cả và quảng đại hơn tình yêu Chúa dành cho chúng ta khi cho Con Một Chúa hiến thân chịu chết vì chúng ta? Chúng ta thể hiện sự hiệp nhất yêu thương đó khi tham dự Bí tích Thánh Thể, khi cùng nhau cầu nguyện và cùng thực hành bác ái yêu thương đối với tha nhân.

Sống Lời Chúa: Phối hợp với nhau trong một nhóm để cùng làm một việc phục vụ công ích.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Ba Ngôi, xin cho tình yêu Chúa dành cho chúng con thực sự triển nở để chúng con xây dựng tình hiệp nhất yêu thương khi cùng nhau bước đi trong Năm Hiệp hành này tiến về nhà Chúa theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

B/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist

TÌNH YÊU NHƯNG KHÔNG, TÌNH YÊU VÔ CÙNG

Tin Mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta rất nhiều ý tưởng. Xin dừng lại ở ý tưởng: Thiên Chúa yêu con người vô cùng, dựa trên cảm nghiệm và xác tín của Thánh Gioan: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Để cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi chúng ta khởi đi từ tình yêu của con người. Đối với con người nhất là người Việt Nam chúng ta, không gì thiêng liêng cao cả bằng tình mẫu tử. Vì yêu con, bà mẹ dám đón nhận tất cả lao nhọc, khổ đau: “Chín tháng mang nặng đẻ đau”;“Nhai cơm lựa cá, nhai cá lựa xương”; âm thầm hi sinh để con được hạnh  phúc:

“Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh cày mẹ thức đủ năm canh”.

 “Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi
Khó đi mẹ dắt con đi;
Con đi trường học mẹ đi trường đời”.

Tình mẹ dành cho con bao la như trời biển chỉ mong con nên người.

Tình nghĩa phu thê cũng vậy: khi yêu nhau, người ta cho nhau mọi sự: của cải, chức tước, sự quan tâm, nâng niu, chiều chuộng… Tình yêu vốn mạnh hơn tử thần (Dc 8, 6), cho nên khi yêu nhau thì “mấy núi cũng leo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”;

“Yêu nhau muôn sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”
.

Vì người yêu, tình nhân sẵn sàng “lìa” cha mẹ để nên một với bạn mình (St 2,24); nên một trong thân xác và trong tâm hồn. Sự kết hợp kỳ diệu của hai người yêu nhau được cô đọng trong câu Ca dao:

“Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai”.

Phải nói rằng tình yêu con người rất đẹp, mang nhiều ưu phẩm, sâu lắng, mạnh mẽ, thiết tha có thể phản ảnh phần nào tình yêu của Thiên Chúa. Thế nhưng, tình con người cho dù là thiêng liêng như tình mẹ, đâm đà như nghĩa phu thê, đem so với tình Chúa yêu con người thì ngàn trùng chênh lệch. Vì tình yêu của con người không tránh khỏi ích kỷ, vụ lợi, chiếm hữu, yêu nên tốt ghét nên xấu, để rồi: tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc. Hơn nữa, con người dù có thương yêu nhau đến mấy cũng không thể chết thay cho nhau được, cũng không thể cứu độ ai nhờ cái chết của mình.

Còn tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người thì tuyệt mỹ vô song:“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào con của Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,16). Thiên Chúa đã ban chính bản thân Ngài, đến chia sẻ kiếp người và chết vì yêu chúng ta (Pl 2,6-11). Ngài đã yêu chúng ta “đến cùng” (Ga 13,1b). Thiên Chúa yêu chúng ta ngay khi chúng ta mang phận tội nhân (x. Rm 5,8). Ngài đã làm người để con người làm Chúa, để con người được sống và sống dồi dào (Ga 10,10), để con người được sống hạnh phúc đời đời (x. Ga 3,16).

Bởi vì, nơi Thiên Chúa Ba Ngôi chỉ toàn là tình yêu (x. 1Ga 4,8). Tình yêu của Đấng trung tín dành cho con ngươi bất tín, tình yêu của Đấng “tuyệt đối” dành cho con người hữu hạn, đó là điều lòng trí con người không bao giờ suy thấu. Suy ngẫm điều đó Thánh Bênađô cảm nghiệm niềm vui tràn ngập tâm hồn, ngài kêu lên: “Ôi suối ngọt ngào, ôi nguồn ân phúc, ôi sức mạnh của Tình Yêu, làm sao cao cả như Ngài mà lại trở thành người như ta”.

Thiên Chúa yêu con người với mối tình tuyệt hảo: “Cho dù có người mẹ nào quên đứa con mình sinh ra, thì Ta, Ta chẳng quên con bao giờ”(Is 49,15). Thiên Chúa yêu con người từ muôn thuở (Gr 31,3), không đổi thay, không vụ lợi. Được lợi gì khi Thiên Chúa yêu con người? Ngài yêu con người cách nhưng không, vô điều kiện. Ngài để con người tự do chấp nhận hay chối từ Ngài. Hơn thế nữa, Ngài đã lấy chính mạng sống: “Máu Thịt” thần linh của ngài nuôi dưỡng chúng ta (Mc 14,20; 1Cr 11,23-25) và luôn mãi ở cùng chúng ta (Mt 28,20).

Thiên Chúa yêu con người “vô cùng” như thế, con người biết lấy chi đáp lại? Thánh Bênađô nói: “Khi Thiên Chúa yêu ta, Ngài chỉ đòi ta đáp trả bằng tình yêu” (Mt 22, 37), mà yêu mến Thiên Chúa là lắng nghe và thực hành Lời Ngài (Lc 10, 38-42; Ga 14,15), là không lấy gì làm quý hơn Chúa (Lc 10, 27). Chính tình yêu Thiên Chúa nồng nàn đã thôi thúc các anh hùng tử đạo thắng vượt đau khổ tự hiến dâng mạng sống chứng minh tình yêu (Rm 8,39).

Yêu mến Thiên Chúa cũng là yêu mọi người. Vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1, 27), được Chúa yêu thương, được Chúa cứu chuộc (Mt 26,28) cả hồn lẫn xác (Mt 9,16-20,35). Bởi thế, chính Chúa dạy phải yêu người, yêu người là yêu Chúa (Mt 10,42; 22,39; Ga 15,13-15.17). Cho nên Thánh Gioan khẳng định: “Nếu ai nói mình yêu Chúa mà lại ghét tha nhân đó là kẻ nói dối” (1Ga 4,20-21). Sống mến Chúa, giữ đạo Chúa là yêu thương hết thảy mọi người.

Xin Thiên Chúa Ba Ngôi giúp chúng ta cảm nghiệm tình yêu của Ngài đang đổ tràn trên đời sống chúng ta, để chúng ta cũng biết quảng đại yêu thương mọi người theo khuân mẫu Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh. Amen.

C/ Lm. Inhaxiô Hồ Thông

LỄ CHÚA BA NGÔI

Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Ngũ Tuần được liên kết khá sớm với việc cử hành lễ Chúa Ba Ngôi. Lễ tôn vinh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được cử hành vào thế kỷ thứ bảy. Lễ nầy dần dần được xem như một ngày lễ đặc biệt trong lịch phụng vụ. Kể từ thế kỷ thứ mười, có khá nhiều nhà thờ cử hành thánh lễ nầy một cách long trọng. Vào năm 1334, Đức Giáo Hoàng Gioan XXII chuẩn nhận việc cử hành nầy ở Rô-ma và mở rộng đến Giáo hội hoàn vũ.
Xh 34: 4-6, 8-9
Bài Đọc I là đoạn trích dẫn nổi tiếng từ sách Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa mặc khải cho ông Mô-sê Danh của Ngài: “Đức Chúa”, và định nghĩa chính mình: “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín”.
2Cr 13: 11-13
Đây là Phần Kết thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Phần Kết này chứa đựng một trong những công thức Chúa Ba Ngôi chính xác nhất của toàn bộ Tân Ước.
Ga 3: 16-18
Đoạn trích Tin Mừng Gioan hôm nay gợi lên tình yêu của Chúa Cha, Đấng trao ban Con của Ngài cho nhân loại để họ được sống đời đời. Ở nơi sự tuôn tràn tình yêu hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trên toàn thể nhân loại, Giáo Hội nhận ra cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần.
BÀI ĐỌC I (Xh 34: 4-6, 8-9).
Sách Xuất Hành thuật lại cuộc ra khỏi đất Ai-cập và thời kỳ đầu tiên dân Do thái hành trình trong hoang địa. Biến cố nầy được định vị có lẽ vào thế kỷ 13 tCn. Nhưng bài trình thuật cũng ghi lại kinh nghiệm tôn giáo của một dân tộc, kinh nghiệm duy nhất mà vị lãnh đạo của dân, ông Mô-sê, người mà Thiên Chúa đã mặc khải Danh Ngài, được thụ hưởng trước tiên.
Sách Xuất Hành tường thuật đến ba lần mặc khải Danh Thiên Chúa nầy, và mỗi một lần, từ những nguồn khác nhau. Người ta biết rằng ba chứng liệu cốt yếu làm nên nền tảng của sách Xuất Hành cũng như Ngũ Thư: chứng liệu Gia-vít (Thiên Chúa được gọi Gia-vê), chứng liệu Ê-lô-hít (Thiên Chúa được gọi Ê-lô-him) và chứng liệu Tư Tế (Thiên Chúa cũng được gọi Ê-lô-him).
Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê lần thứ nhất vào lúc Ngài trao phó cho ông sứ mạng giải phóng dân Do thái khỏi ách Ai-cập, theo trình thuật Ê-lô-hít (Xh 3: 14-15); lần thứ hai sau cuộc thất bại của ông Mô-sê khi hội kiến với Pha-ra-on, theo trình thuật Tư Tế (Xh 6: 2-5); lần thứ ba ở nơi bản văn mà chúng ta đọc vào Lễ Ba Ngôi hôm nay, theo trình thuật Gia-vít. Tác giả chỉ long trọng nhắc lại Danh Thiên Chúa là “Gia-vê”, bởi vì ông đã luôn luôn gọi Thiên Chúa dưới danh xưng nầy trước đây rồi, nhưng ông mang đến cho mặc khải cảm động này những phẩm tính của chính Hữu Thể thần linh, Ngài là một vị Chúa rất mực yêu thương, hay tha thứ và giàu lòng nhân hậu.
1.Thần Hiển trên núi:
“Khi ấy, ông Mô-sê dậy sớm và lên núi Xi-nai theo lệnh Chúa đã truyền cho ông; ông mang hai bia đá trong tay”. Trước đây, ông Mô-sê đã lên núi Xi-nai và đã lãnh nhận ở đó hai tấm bia đá ghi khắc Lề Luật rồi. Nhưng trong lúc xuống núi, ông đã đau đớn đến sửng sốt khi nhìn thấy cảnh tượng dân Do thái múa hát chung quanh “con bê bằng vàng” và xưng tụng nó như vị thần linh đã giải thoát mình khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập. Tức giận, ông đã ném vỡ hai tấm bia Lề Luật (Xh 32: 19).
Chương 34, mà bài trình thuật hôm nay được trích dẫn, mô tả việc tái lập Giao Ước. Những chi tiết của bài trình thuật này mang dấu ấn của tác giả Gia-vít. Cũng chính tác giả này trong sách Sáng Thế trình bày Đức Chúa “đi dạo với hai ông bà nguyên tổ trong vườn lúc gió chiều hiu hiu thổi” (St 3: 8). Cũng chính ông trong bài trình thuật hôm nay mô tả “Chúa ngự xuống trong đám mây”, đám mây chiếu sáng nầy vừa báo hiệu nhưng đồng thời vừa che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa. Qua hình ảnh này, tác giả diễn tả sự gần gũi thân tình của Thiên Chúa, nhưng đồng thời sự siêu việt khôn tả của Ngài. Và cũng chính ông trong bài trình thuật hôm nay mô tả Thiên Chúa “đứng đó với ông Mô-sê” theo cùng cung cách thân mật như Ngài đã đứng gần bên A-đam và nói chuyện với ông. Hoạt cảnh của cuộc Thần Hiển vừa giản dị vừa uy nghi hùng vĩ.
2.Danh Thiên Chúa:
“Người xưng danh Người là Gia-vê”. Danh Thiên Chúa là “Gia-vê” được diễn tả bởi bốn phụ âm thánh: YHWH. Danh nầy khá bí ẩn đến nổi người ta có thể kết luận rằngThiên Chúa không thực sự trao ban Danh Ngài. Lại càng không nữa, vì theo não trạng Sê-mít, tên chính là người mang tên ấy, biết tên của một vị thần linh, chính là có quyền điều khiển vị thần linh mang tên đó theo ý muốn của mình. Thiên Chúa không thể trao phó chính mình vào trong tay con người. Như thế, danh bí ẩn này muốn nói rằng Thiên Chúa là một mầu nhiệm khôn tả. Dù thế nào, Thiên Chúa định vị mình như Hữu Thể siêu việt, độc lập tuyệt đối, không hư vô như các ngẫu tượng, Ngài tự hữu.
Vào thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, dân Do thái có thói quen không xướng danh Gia-vê để tôn kính Thiên Chúa. Danh nầy được thay thế bằng một tước hiệu cao quý khác theo tiếng Do thái: “Adonai”, hay theo tiếng Hy lạp: “Kurios”. Bản dịch của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, vì muốn gìn giữ sự tôn kính danh Thiên Chúa theo văn hóa dân Do thái, đã thay thế danh Thiên Chúa này bằng danh xưng “Đức Chúa”.
3.Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín.
Dù danh Thiên Chúa được hiểu như thế nào, thì Thiên Chúa cũng tự giới thiệu mình cho ông Mô-sê ngay liền sau đó: “Đức Chúa! Đức Chúa!  Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín”. Trong ngữ cảnh trực tiếp, qua lời giới thiệu này, Thiên Chúa muốn nói với ông Môsê là Ngài tha thứ cho dân Ngài tội bội giáo mà việc thờ lạy con bê vàng là chứng cớ hiển nhiên. Trong ngữ cảnh chung của Kinh Thánh, mặc khải nầy được ghi khắc như cải chính hình ảnh của một Thiên Chúa đáng sợ và thù hằn. Mặc khải này loan báo những sứ điệp của các đại ngôn sứ và giáo huấn của sách Đệ Nhị Luật về lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Mặc khải này đánh dấu một trong những đỉnh cao của Cựu Ước.
4.Lời cầu bầu của ông Mô-sê: 
Ông Mô-sê là người trung gian giữa Thiên Chúa chí thánh và một dân tội lỗi. Trước nỗi xao xuyến của ông Mô-sê về tội lỗi của dân mình, Thiên Chúa đáp trả bằng cách nêu ra lòng từ bi nhân hậu của Ngài. Như được yên lòng, ông Mô-sê tin tưởng nhưng khiêm hạ nói lên lời cầu bầu của mình.
Lời cầu bầu này thật có ‎ý nghĩa trong bối cảnh vừa mới xảy ra trước đây: dân Do thái, khốn khổ vì khát, đã than trách và ngờ vực: “Có Đức Chúa ở giữa chúng tôi không?” (Xh 17: 7) và những kẻ dựng tượng bò vàng là muốn “có một vị thần minh mà họ thấy được dẫn đầu họ” (Xh 32: 23). Vì thế, phải chăng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en quá siêu việt đến nổi phải thay thế Ngài bằng một ngẫu tượng vật chất để mà dân có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa? Vì thế, ông Mô-sê bạo dạn khẩn nguyện cùng Chúa: “Lạy Chúa, nếu quả tôi được nghĩa với Chúa, thì dám xin Chúa cùng đi đường với chúng tôi. Dân nầy là một dân cứng cổ, nhưng xin tha thứ tội tình lầm lỗi chúng tôi, và nhận chúng tôi làm dân riêng của Ngài”. Đó là tất cả ‎ý nghĩa của Giao Ước Xi-nai. Đó cũng sẽ là Giao Ước Mới.
BÀI ĐỌC II (2Cr 13: 11-13).
Thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô có lẽ được viết vào cuối năm 56 hay 57. Đoạn trích dẫn hôm nay là Phần Kết thúc của thư nầy.
1.Những lời khích lệ:
Thánh Phao-lô thông thường kết thúc các thư của mình với những lời khích lệ. Cũng vậy, trong lời kết của bức thư này, thánh nhân mời gọi họ hãy vui mừng và nổ lực hoàn thiện bản thân mình, tiếp đó hãy đồng tâm nhất trí với nhau và ăn ở hòa thuận. Lời khuyên bảo này ám chỉ cách kín đáo đến những chia rẽ trước đây của cộng đoàn Cô-rin-tô, giờ đây mọi việc đã qua rồi.
“Anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện”. Đó là dấu chỉ của tình bạn. Lời khuyên của thánh nhân thường đem lại cho nụ hôn huynh đệ nầy tất cả ý nghĩa của nó (x. 1Th 5: 26; 1Cr 16: 20; Rm 16: 16). Tiếp đó, “Tất cả tín hữu ở đây gi lời chào anh em”. Các tín hữu nầy là cộng đồng Ki-tô hữu mà thánh Phao-lô viết bức thư này gởi cho họ khi thánh nhân ở Trô-a hay đúng hơn, ở Ma-xê-đô-ni-a.
2.Lời chúc kết thư:
Lời chúc kết thư được diễn tả bởi biểu thức Ba Ngôi, một trong những biểu thức Ba Ngôi rõ nét nhất trong toàn bộ Tân Ước: “Xin chúc toàn thể anh em được đầy ân sủng của Đức Giê-su Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần.” Lời cầu chúc nầy có thể bắt nguồn phụng vụ, điều nầy làm chứng cho tính cổ xưa của nó.
Kể từ cuộc canh tân phụng vụ, chính với lời chào nầy mà linh mục tiếp đón các tín hữu ở đầu Thánh Lễ: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giê-su Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh em”. Biểu thức cổ xưa đơn giản là biểu thức mà vị linh mục công bố khi làm dấu Thánh Giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Biểu thức nầy cũng là Ba Ngôi nhưng không nhất thiết đón tiếp Cộng Đoàn.
TIN MỪNG (Ga 3: 16-18).
Đoạn trích Tin Mừng Gioan vào Lễ Ba Ngôi hôm nay là phần cuối cuộc đối thoại của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một người Biệt Phái có thế giá đến gặp gỡ Đức Giê-su vào ban đêm.
1.Tiến trình đức tin:
Thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại phần đầu. Ông Ni-cô đê-mô là một người Biệt Phái thế giá có thiện cảm với Đức Giê-su. Ông đến gặp gỡ Đức Giê-su để được hiểu thêm nữa về Ngài, nhưng lại đến vào ban đêm vì ông sợ giai cấp lãnh Do thái dị nghị về mình. Trong cuộc gặp gỡ đó, Đức Giê-su không úp mở nói thẳng với ông về những khó khăn để tin. Chúng ta lưu ‎ý‎ rằng thánh Gioan không bao giờ dùng danh từ “niềm tin” theo cách trừu tượng và ở trạng thái tỉnh, nhưng luôn luôn dùng động từ “tin”, hàm chứa một chuyển động đầy tính năng động gắn bó keo sơn bền chặc: phải tái sinh “từ trên cao” và đặt mình dưới hơi thở của Thần Khí (3: 7); phải nhận ra nguồn gốc thần linh của “Con Người” và chấp nhận “sự siêu thăng của Ngài” trên thập giá (3: 13-14). Một tiến trình đức tin như thế được Thần Khí dẫn đưa vào trong mầu nhiệm tình yêu.
2.Tình yêu của Chúa Cha:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người”. Việc khai triển ở đây phải chăng vẫn còn thuộc vào bài diễn từ của Đức Giê-su hay trình bày những suy tư cá nhân của tác giả Tin Mừng? Giả thuyết thứ hai xem ra đúng hơn. Chủ đề và từ ngữ gần với Tựa Ngôn của sách Tin Mừng cũng như thư thứ nhất của thánh Gioan.
Từ ngữ “thế gian” trong Tin Mừng Gioan thường có ‎ý nghĩa tiêu cực để chỉ những con cái của bóng tối tìm cách chống lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa; nhưng rõ ràng đó không là trường hợp của đoạn Tin Mừng hôm nay. Ở đây, thế gian chỉ toàn thể nhân loại mà Thiên Chúa yêu thương đến mức đã sai Con của Ngài đến“để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Đây là lời khẳng định về tình yêu bao la của Thiên Chúa đối với nhân loại và chiều kích phổ quát của ơn cứu độ.
Tình yêu bao la của Chúa Cha đối với nhân loại được nhấn mạnh qua cách diễn tả: “Ngài đã ban Con Một của Ngài. Thánh Gioan là tác giả Tin Mừng duy nhất dùng danh xưng “Con Một” (hai lần trong Tựa Ngôn Tin Mừng 1: 16 và 18, hai lần trong đọan văn nầy: 3: 16, 18, và được lặp lại trong thư thứ nhất: 1Ga 4: 6.). Danh xưng nầy gợi ra tức khắc I-xa-ác, người con một rất mực thiết thân của ông Áp-ra-ham. Trong câu chuyện của sách Sáng Thế (22: 1-14), chính người cha đã đích thân dẫn đứa con duy nhất của mình đến cái chết (St 22: 1-14), trong đó, nỗi đau thầm lặng của người cha chỉ gợi ý. Cũng như trong bài trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan chỉ nói bóng gió nỗi đau tận đáy lòng của Chúa Cha, Đấng trao nộp Con Một của Ngài vào tay con người cho đến tận cái chết, như lời khẳng định của thánh Phao-lô: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8: 32), và sau này Giáo Phụ Ô-ri-giê-nê nhận định: “Cuộc Tử Nạn của Chúa Cha là cuộc tử nạn của tình yêu”.
3.Đấng Cứu Độ chứ không là vị Thẩm Phán:
“Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ”. Truyền thống Do thái dự kiến rằng Đấng Thiên Sai đến là Đấng Thiên Sai-Thẩm Phán, tức là kỷ nguyên thiên sai khai mở thời Chung Thẩm. Chính thánh Gioan Tẩy Giả đã mạnh mẽ nhắc lại điều nầy: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa… Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẩm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3: 10 và 12).
Thần học Tin Mừng Gioan thì hoàn toàn khác. Một mặt, thánh k‎ý đặt ưu tiên hành động cứu độ của Đức Giê-su; mặt khác, nội tâm hóa việc xét xử. Đức Kitô đã đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là Thẩm Phán: Ngài dẫn đưa con người đến “sự sống đời đời”. Sự sống đời đời, theo Tin Mừng Gioan, không chỉ là cuộc sống tương lai trong một thế giới sắp đến, nhưng còn được dự phần vào sự sống Thiên Chúa ngay từ thế giới hiện nay.
4.Chiều kích nội tâm của việc xét xử:
Ý định Thiên Chúa cứu độ con người không thể nào được thực hiện nếu không có sự đồng thuận của con người. Chính họ phải chọn lựa: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi”.
Lời cảnh báo được gởi đến với hết mọi người, nhưng mạch văn của chương 3 nầy, như mạch văn của chương 2, hướng tư tưởng về tấm thảm kịch của sự chọn lựa được đặt ra cho nhóm Biệt Phái cũng như cho mọi người Do thái khi đối mặt với sự hiện diện của Đức Giê-su, giáo huấn của Người và những dấu chỉ mà Người ban làm chứng Ngài được Chúa Cha sai đến. Nếu cương quyết không chịu tin, nhất mực từ chối ánh sáng, thái độ nầy sẽ kết án những ai chọn lựa như vậy. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt Tin Mừng thứ tư được dệt nên bằng sự căng thẳng nầy.
5.Khía cạnh Ba Ngôi:
Chúng ta có thể ngạc nhiên về việc chọn lựa bản văn nầy vào Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngôi thứ nhất (Chúa Cha) và Ngôi thứ hai (Chúa Con) được nêu tên ở đây, nhưng Ngôi thứ ba (Chúa Thánh Thần) xem ra không thấy nói đến. Thật ra, tác giả Tin Mừng tô thật đậm tình yêu của Chúa Cha và tình yêu của Chúa Con tuôn tràn trên nhân loại. Chính ở nơi tình yêu tròn đầy giữa Cha và Con mà Giáo Hội nhận ra cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Cha và Con”. Chúa Thánh Thần là Đấng thông truyền và khuếch trương Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con đối với nhân loại.

D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

THIÊN CHÚA LÀ NGUỒN YÊU THƯƠNG

A. DẪN NHẬP

  Chúng ta có thể tuyên xưng với người Do thái giáo và Hồi giáo rằng: Chúng tôi tin một Thiên Chúa duy nhất, Đấng Tạo Hoá, Chủ Tể vũ trụ. Nhưng là người Kitô hữu, được Chúa Kitô soi sáng, chúng ta còn tin Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm nền tảng của đức tin chúng ta.

  Không ai biết được Thiên Chúa nếu Ngài không mạc khải cho. Trong thời Cựu ước, loài người chỉ được biết có sự hiện hữu của một Thiên Chúa Giavê, Ngài là Đấng hằng hữu, nhưng còn Thiên Chúa Ba Ngôi thì chính Chúa Giêsu mạc khải cho trong thời Tân ước này. Theo mạc khải đó, chúng ta biết được có sự hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Ngài là nguồn yêu thương và bình an, là gương mẫu tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Chúng ta hân hạnh được làm con Chúa Ba Ngôi để dám gọi Ngài là Cha: “Abba, Cha ơi”. Đáp lại vinh dự đó, chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng và tuyên xưng danh Ngài cho đến tận cùng thế giới.

  Giáo hội muốn dành riêng một ngày Chúa nhật trong năm Phụng vụ, để đặc biệt tôn kính và tìm hiểu mầu nhiệm lớn lao này. Chúng ta sẽ không bao giờ thấu hiểu được Chúa Ba Ngôi như thánh Augustinô đã làm, nhưng chúng ta biết Chúa Ba Ngôi là khuôn mẫu của sự yêu thương và hiệp nhất. Trong cuộc sống hằng ngày Chúa Ba Ngôi vẫn ngự trị và hành động trong chúng ta, do đó, chúng ta phải tôn kính Ngài, học đòi bắt chước Ngài mà sống yêu thương và phục vụ.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Xh 34, 4-6.8-9

  Qua đoạn sách Xuất hành hôm nay, chúng ta biết, Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung. Chính Thiên Chúa đã giải thoát Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, nhưng dân Chúa lại phản bội Ngài, đi thờ con bò vàng thay Chúa. Tuy thế, qua lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã tha thứ cho họ và vẫn trung thành thi hành giao ước đối với họ.

  Ngay từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho thấy Ngài là một vì Thiên Chúa của tình yêu. Trong thời Tân ước, việc mạc khải được sáng tỏ hơn với việc Thiên Chúa sai Con Một của Ngài đến cứu độ trần gian là Đức Giêsu Kitô.

+ Bài đọc 2: 2Cr 13,11-13

  Thánh Phaolô, dựa vào niềm tin: Thiên Chúa là nguồn tình yêu và bình an, đã mời gọi các tín hữu Côrintô hãy vui lên vì mọi người đã được cứu chuộc và được làm con Chúa để mọi người không còn sợ sệt mà dám gọi Thiên Chúa là Cha: “AbbaCha ơi”.

  Vì trong cộng đoàn Côrintô có sự lộn xộn bất hoà với nhau, nên thánh Phaolô đã viết thư cảnh cáo và khuyên bảo họ hãy sống đoàn kết thương yêu nhau; đồng thời cũng cầu chúc họ được tràn đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi.

+ Bài Tin mừng: Ga 3,16-18

  Bài Tin mừng hôm nay nhắc lại tư tưởng đã được đề cập trong bài Cựu ước ở trên: Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng giàu lòng thương xót. Tình yêu Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể trong Tân ước: Thiên Chúa tỏ ra là Thiên Chúa yêu thương đã ban Người Con duy nhất cho trần gian, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Điều đó buộc mọi người phải tin vào Con Thiên Chúa, ai không tin thì sẽ bị lên án.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Ba Ngôi yêu thương và hiệp nhất

I. MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA BA NGÔI

  Đã là mầu nhiệm thì không thể hiểu thấu được, nhất là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm lớn trong Đạo. Câu chuyện của thánh Augustinô sẽ soi sáng thêm cho chúng ta về vấn đề này: Sau một đời ăn chơi trụy lạc và chạy theo tà thuyết, Augustinô đã tìm về với Kitô giáo. Ngài được xem là điển hình của một sự khao khát và tìm kiếm không ngừng. Điều đó được thể hiện qua một giai thoại như sau:

  Augustinô thuộc khuynh hướng của những người cho rằng với kiến thức và nỗ lực tìm kiếm, con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu óc miên man nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa, tình cờ Ngài gặp một cậu bé đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào một lỗ nhỏ trên cát, rồi dùng vỏ sò ấy múc nước biển đổ vào.
Nhưng dã tràng xe cát biển đông, nó cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn không bao giờ đầy. Ngạc nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi chuyện. Ngài hỏi nó đang làm gì, đứa bé trả lời không chút do dự:
– Thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước bể đại dương.
Thánh nhân lắc đầu bảo nó:
– Cháu không thể làm được chuyện đó đâu.
Đứa bé ngước lên và mỉm cười nói:
– Múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu nhiệm về Thiên Chúa.

  Thánh Augustinô chợt hiểu được một chân lý: Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được (D. Wahrheit, Tìm về cõi phúc, tr 68).

 * Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại. Khi học giáo lý, ta đã học thuộc lòng về các mầu nhiệm, trong đó có 3 mầu nhiệm lớn nhất trong đạo:

. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
. Mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể.
. Mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc.

 * Ta không thể biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi mà hoàn toàn do Chúa Giêsu mạc khải cho trước khi Ngài về trời, khi Ngài phán: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,18-19).

 * Đây quả là một mầu nhiệm thẳm sâu, chúng ta không thể nào diễn tả được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhưng trong vũ trụ thiên nhiên chúng ta có thể lấy được nhiều hình ảnh cụ thể dùng lối loại suy để hiểu về Chúa Ba Ngôi:

  Khi thuyết giảng tại công viên Hyde Park, Frank Sheed đã dùng mưa rơi để cố gắng giúp người ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi. Ông thường nói: “Nước đang rơi đây thực là nước nhưng nó có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi, thể rắn và thể lỏng – nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng và dạng nước mưa đang rơi đây”.

  Dĩ nhiên tất cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên tất cả thực tại, tuy nhiên chúng ta có thể thấy được chủ ý của Frank muốn nói là không phải có ba loại nước, mà chỉ có một loại nước, nhưng nó hiện hữu trong ba dạng khác nhau. Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa một cách tương tự như thế.

  Một phương pháp khác giúp ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi là ví dụ mà thánh Ignatiô Loyola thường dùng. Có lần trong lúc cầu nguyện, Ngài bỗng nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.

  Và cuối cùng, chúng ta cũng thấy thánh Patrick thường dùng ba lá của loại xa trục thảo (3 lá ghép thành một) để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.

  Làm thế nào chúng ta có thể áp dụng tất cả những điều nói trên vào hành động cụ thể? Chúng ta có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn trong cuộc sống riêng tư của chúng ta? Có phương pháp mà một số người cho là hữu ích đó là cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Họ dùng ba phút để hồi tâm về một ngày vừa chấm dứt… (M. Link. Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 179-180).

II. BÀI HỌC RÚT RA TỪ CHÚA BA NGÔI

  Nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thì không bao giờ cùng. Các nhà thần học có nghiên cứu, có tìm hiểu đến đâu, có tranh luận đến khô bọt mép đi nữa thì cuối cùng cũng chỉ đi đến một kết luận chung: “TÔI TIN”, vì đây là một mầu nhiệm cao cả trong đạo mà! Ngay trong thế giới tâm linh của con người cũng còn có biết bao điều bí ẩn lớn lao mà không khám phá ra như người ta vẫn nói:

Dò sông dò biển dễ dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người (Ca dao)

  Có ai dám tự phụ cho rằng mình hoàn toàn hiểu được chính mình không? Khi hai người khác phái được kết hợp với nhau trong hôn nhân, tình vợ chồng dù có thâm sâu đến đâu, cũng không bao giờ con người có thể hiểu được tường tận người phối ngẫu của mình. Mãi mãi cho đến bên kia cõi chết, mỗi người vẫn là một mầu nhiệm đối với nhau.

  Nếu những bí ẩn của đời sống con người còn chưa hiểu hết được, làm sao ta có thể hiểu tường tận mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi? Ta chỉ có thể rút ra được vài bài học từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi để áp dụng vào cuộc sống của ta.

1. Bài học về yêu thương

  Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định: “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8). Thánh Grêgôriô Cả nói: “Để giữ vững cương vị thì tình thương phải lan tràn sang người khác”. Nói khác đi, tình thương phải bắt nguồn nơi mình và phải kết thúc nơi người khác, chẳng vậy nó chỉ còn là ích kỷ chứ không còn là tình thương nữa.

  Bài Tin mừng hôm nay bắt đầu bằng câu: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Con Một Người sẽ không phải chết mà còn được sống đời đời” (Ga 3,16). Yếu tính của tình thương là CHO ĐI và KẾT HỢP. Yêu tức là CHO tất cả. Thiên Chúa yêu thương loài người và đã cho loài người tất cả: trời đất, núi non, sông biển cùng với muôn vàn tạo vật. Thiên Chúa còn cho loài người sự sống – một thứ chỉ có Người mới cho được. Thiên Chúa cho loài người một linh hồn – một thứ làm cho loài người nên giống Thiên Chúa (Rm 8,17).

  Thiên Chúa đã ban cho loài người tất cả rồi. Còn một điều cao quý nhất mà Thiên Chúa cũng ban, đó là ban chính Con Một Người: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người cho thế gian”.

  Chúng ta biết do đức tin: Thiên Chúa là Đấng duy nhất nghĩa là chỉ có một bản thể, trong bản thể ấy lại có Ba Ngôi – Ba Ngôi đúc lại thành một Thiên Chúa duy nhất. Thiên Chúa yêu thương thế gian… cho nên đã phó Con Một Người cho thế gian, nghĩa là đã ban trót mình cho thế gian. Không những ban Chúa Con là Ngôi Thứ Hai mà là ban chính mình, trong đó gồm cả bản tính Thiên Chúa ở trong Ba Ngôi, cho nên ban Con Một Người tức là đã ban tất cả Thiên Chúa – tất cả mình – và chính mình cho thế gian. Và như vậy là Thiên Chúa đã THƯƠNG thế gian, và đã giữ đúng nghĩa chữ THƯƠNG là cho TẤT CẢ (Lm. Nguyễn Duy Tôn, Lời Chúa, năm A, t II, tr 9).

Truyện: Tình yêu hiến thân

  Ngày 20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến, nhưng vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên chị từ chối, thà chết còn hơn để cho bác sĩ chữa trị ung thư bằng quang tuyến.

  Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai mạnh khoẻ, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng: “Vào mấy ngày cuối cùng của cuộc đời, chị Brown biết mình bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào chị cũng thành công và sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ”.

  Bác sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần thấy mặt”.

2. Bài học về hiệp nhất

  Theo Tân ước, chúng ta thấy có một trường hợp hy hữu mà Ba Ngôi Thiên Chúa cùng hiện diện và cùng hoạt động. Đó là khi Chúa Giêsu xin ông Gioan làm phép rửa cho mình: lúc Ngài ở dưới sông lên thì trời tự nhiên mở ra, và từ trên không trung có tiếng phán ra rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Cùng một trật đó, thấy hiện đến và đỗ trên đầu Chúa Con một chim bồ câu. Đó là lần thứ nhất từ khi có lịch sử loài người, Ba Ngôi hiện diện và hành động trong một lúc: Trước hết là Ngôi Con chịu phép rửa, rồi Ngôi Cha từ trời phán ra, và sau hết Ngôi Thánh Thần dưới hình chim bồ câu hiện đến.

  Về niềm tin vào Chúa Ba Ngôi, Hội thánh đã tóm tắt lại trong kinh Tin kính của thánh Athanasiô đại khái như sau: Có một Đức Chúa Trời mà Người có Ba Ngôi: Ngôi nhất khác, Ngôi hai khác, Ngôi ba khác… Đức Chúa Cha là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Thánh Thần là Đức Chúa Trời, nhưng là một Đức Chúa Trời, chứ không phải là ba Đức Chúa Trời… Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời; Đức Chúa Con phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời; Đức Chúa Thánh Thần phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời… Không có Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém, Ba Ngôi đều bằng nhau, như nhau về tất cả mọi phương diện… Đức Chúa Cha không bởi ai sinh ra, Đức Chúa Con bởi Đức Chúa Cha sinh ra. Đức Chúa Thánh Thần bởi Ngôi Cha và Ngôi Con mà ra.

  Đó là tất cả những điều về Chúa Ba Ngôi do Chúa Giêsu dạy, các Tông đồ trối lại và các thánh Giáo phụ để lại cho chúng ta.

  Trong các câu mở đầu của kinh cầu, Hội thánh luôn xưng hô và ca tụng Ba Ngôi Thiên Chúa mà trong Kinh cầu chữ (bằng chữ Hán của ông Cử Thiện ở Bùi Chu) được giáo dân đọc trong các ngày giỗ, được dịch là: “Tam vị nhất thể Thiên Chúa giả”: Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời, thương xót chúng con. Câu dịch rất vắn gọn và đúng ý nghĩa: Ba Ngôi vị chỉ có một bản tính Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật…

  Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi cùng hoạt động trong Hội thánh và nơi từng người nói lên sự hiệp nhất bền chặt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một mô hình tuyệt vời về sự hiệp nhất mà Chúa ban cho ta để ta cũng phải củng cố sự hiệp nhất trong Hội thánh và trong cộng đoàn chúng ta. Sự hiệp nhất sẽ đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích trong đời sống tự nhiên và siêu nhiên.

Truyện: Bài học từ loài ngỗng

  Vào mùa thu, khi bạn thấy bầy ngỗng bay về phương Nam để tránh đông theo hình chữ V, bạn có tự hỏi những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ đó. Mỗi khi một con ngỗng vỗ đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con ngỗng bay ngay sau nó. Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng tiết kiệm được 71% sức lực so với khi chúng bay từng con một.

  Mỗi khi một con ngỗng bay lạc khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh chóng cảm thấy sức trì kéo và những khó khăn của việc bay một mình. Nó sẽ nhanh chóng trở lại đàn để bay theo hình chữ V như cũ, và được hưởng những ưu thế của sức mạnh từ bầy.

  Khi con ngỗng đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh và một con ngỗng khác sẽ dẫn đầu. Tiếng kêu của bầy ngỗng từ đàng sau sẽ động viên những con đi đầu giữ được tốc độ của chúng.

  Cuối cùng, khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương và rơi xuống, hai con ngỗng khác sẽ rời khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo vệ nó. Chúng sẽ ở lại cho đến chừng nào con bị thương lại có thể bay hoặc là chết, và khi đó chúng sẽ nhập vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam (Lấy từ Internet theo Thùy Trang forward).

3. Một vài thực hành

 * Kinh Sáng danh: Khi đọc kinh Nhật tụng, mỗi khi đọc kinh Sáng danh, ta hãy tỏ lòng cung kính, cúi đầu, để ca tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi trong đời sống ta. Mỗi chục kinh Mân côi, chúng ta cũng đọc một kinh Sáng danh và còn nhiều dịp khác chúng ta có thể đọc được kinh đó.

 * Dấu Thánh giá: một trong những kinh nguyện mà người công giáo chúng ta học, là dấu Thánh giá, thật đơn sơ và tốt đẹp. Chúng ta đưa bàn tay phải lên trán, lên ngực, vai trái và vai phải khi chúng ta cầu nguyện: “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Hành động thánh đó nhắc nhở chúng ta rằng: có Chúa Ba Ngôi trong một Thiên Chúa, và Ngôi Hai đã chết trên thập giá vì tất cả chúng ta.

  Lạy Cha! Thiên Chúa của con, bây giờ con mới hiểu sâu sắc câu nói của Đức Giêsu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho họ”. Thì ra sự công bằng vô bờ bến của Cha không cho phép Cha làm một cái gì đơn giản hơn để cứu chuộc nhân loại. Và bây giờ con mới hiểu được tình Cha yêu thương nhân loại, trong đó có con, như thế nào! Xin cho con biết sống xứng đáng với tình yêu ấy! Cho con biết đáp lại tình yêu vô bờ bến ấy bằng trọn tình yêu của con. Đồng thời cũng cho chúng con được biết thể hiện tình yêu ấy trong cuộc sống hằng ngày bằng cách yêu thương, phục vụ mọi người và hiệp nhất với nhau để xây dựng Hội thánh.

Truyện: Tình yêu của Thiên Chúa

  Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng loại. Bà là một người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo:

 – Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là gì cả.

  Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.

  Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt:

 – Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses cookies to offer you a better browsing experience. By browsing this website, you agree to our use of cookies.